Nghệ thuật tạo và nắm thời cơ chiến lược
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975
Đặt vấn đề
Cách đây 40 năm, vào mùa xuân năm 1975, lịch sử dân
tộc Việt Nam
đã ghi thêm một chiến công vĩ đại làm nức lòng nhân dân trong nước cũng như
nhân dân thế giới. Chỉ trong 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân dân ta đã
làm một trận quyết chiến lịch sử vang dội, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh
xâm lược và đập tan ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ, giải phóng hoàn
toàn miền Nam và thống nhất đất nước, kết thúc vẻ vang 21 năm (1954 – 1975)
kháng chiến lâu dài, gian khổ và vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc ta, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, nhất là nghệ thuật tạo thời cơ và
tranh thủ thời cơ chiến lược của Đảng ta.
Nội dung:
1.
Vấn đề thời cơ trong chiến lược lãnh đạo của Đảng ta
và quá trình tạo và nắm bắt thời cơ của Đảng trong lãnh đạo cuộc Tổng tiến công
mùa xuân năm 1975.
Thời cơ (tiếng Anh: ocassion, tiếng Pháp: conjoncture) là
thời điểm lịch sử thuận lợi nhất, tốt nhất và đủ điều kiện nhất để tiến hành
một hoạt động tạo ra kết quả theo đúng ý đồ của mình. Tùy theo những nỗ lực chủ
quan của con người mà thời cơ có thể tiến đến rất tuần tự hoặc nhảy vọt lên
cao. Muốn tạo được thời cơ thì phải nắm được xu thế phát triển của sự vật, phát
huy những nhân tố tích cực đã có và hạn chế đến mức thấp nhất các nhân tố tiêu
cực, chuẩn bị đầy đủ những điều kiện tốt nhất để đón nhận thời cơ khi nó xuất
hiện.
Hơn nữa, thời cơ một khi đã chuẩn bị đủ điều kiện thì
nên có một sự cân nhắc kỹ càng trong chiến lược của lãnh đạo Đảng. Sự cân nhắc
đó là sự cân nhắc về vấn đề thời gian, lực lượng, không gian…, nhưng trong đó
vấn đề thời gian là quan trọng nhất. Thời cơ chỉ xuất hiện trong một khoảng thời
gian nhất định. Khi thời cơ xuất hiện thì thời gian chính là lực lượng. Khi
thời cơ đến, ta phải dựa vào thực lực cách mạng đang mạnh mẽ; chọn đúng thời
điểm để phát động cuộc Tổng tấn công. Trong nghệ thuật chớp thời cơ, thời gian
được chọn để tiến hành thời cơ không được diễn ra trước (hoặc sau) thời cơ, vì
làm điều đó sẽ dẫn tới những hậu quả không lường trước được, trong đó không
loại trừ khả năng đối phương sẽ phản ứng và nhảy vào can thiệp.
Thời cơ và thực lực cách mạng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu không có sẵn thực lực cách mạng đến mức đủ mạnh
thì không thể tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời lợi dụng nó.
Nếu “Để mất thời điểm thuận lợi, không sử dụng thời gian để tung vào kẻ địch
những lực lượng ưu thế có nghĩa là phạm một sai lầm to lớn nhất có thể có trong
chiến tranh”.
Trong lịch sử, ông cha ta trong quá trình kháng chiến
chống ngoại xâm bảo vệ độc lập cho đất nước đã đúc kết nhiều bài học kinh
nghiệm về vấn đề thời cơ. Trong Binh thư
yếu lược, Trần Quốc Tuấn đúc kết: “Trong việc dùng binh không có gì thần
bằng cơ, cơ một ngày không trở lại, một tháng không trở lại”. Chớp thời cơ chính là sự nắm bắt, tận dụng những điều
kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi một cách triệt để, có hiệu quả.
Ph.Ăngghen đã nói: “Trong thương mại thời gian là tiền, thì trong chiến tranh,
thời gian là chiến thắng”. V.I.Lênin chỉ rõ trong cách mạng Tháng Mười
Nga: “đêm nay và chỉ trong đêm nay” - đêm 24-10-1917, “Lịch sử sẽ không tha thứ
cho những người cách mạng có thể thắng lợi hôm nay (và chắc chắn sẽ thắng lợi
hôm nay) mà lại để chậm trễ… Những người cách mạng sẽ phạm tội ác vô cùng lớn
nếu họ bỏ mất thời cơ. Chậm trễ trong khởi nghĩa là chết”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề thời cơ cách mạng. Người
nhấn mạnh: Thời cơ là thời thế, là thời gian, thời điểm có lợi nhất để tấn công
đối phương. Người yêu cầu phải biết tạo và nắm thời cơ, tức là phải nắm chắc
quy luật vận động, xu thế phát triển của tình hình. Trong bài thơ “Học đánh cờ”
(trích trong Nhật ký trong tù), Bác đã
tóm gọn trong hai câu thơ hàm súc:
Lạc
nước hai xe đành bỏ phí
Gặp
thời một tốt cũng thành công.
Nắm chắc quy luật này, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách tài tình và sáng tạo vấn đề thời cơ
trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ xâm lược. Sau khi đã lãnh đạo quân dân hai miền giành những thắng lợi quyết
định trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán, buộc Mỹ ký Hiệp định Paris để chúng phải rút
quân về nước vào ngày 21/7/1973. Việc này đã dẫn đến so sánh tương quan lực
lượng trên chiến trường miền Nam
thay đổi theo hướng có lợi cho ta, bất lợi cho quân đội Sài Gòn. Đó là một điều
kiện thuận lợi để ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, đúng như đồng chí – cố
Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: “Chúng ta buộc địch ký hiệp định Pa-ri có nghĩa là
ta đã mạnh hơn địch, đủ sức thắng cả Mỹ lẫn ngụy. Khi Mỹ còn là ta giành được
thắng lợi vậy thì sau khi Mỹ rút hết, ta càng mạnh hơn và nhất định đánh thắng
hoàn toàn quân ngụy”
Mặc dù vậy, tình hình sau đó lại diễn
biến hết sức phức tạp. Đế quốc Mỹ mặc dù đã rút quân khỏi Việt Nam sau khi ký Hiệp định Paris 1973, nhưng chúng chưa chịu từ bỏ âm
mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong những năm cuối trước khi từ chức vì vụ
Watergate năm 1974, Tổng thống Mỹ là Nixon tiếp tục duy trì và áp dụng chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” mà ông ta đề ra từ năm 1969, tiếp tục chính
sách ngoại giao nước lớn nhằm liên minh với các nước lớn như Trung Quốc, Liên
Xô (các quốc gia XHCN anh em của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) để kiềm chế,
cô lập cách mạng Việt Nam, duy trì ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á với một sức
mạnh răn đe lớn (15.200 quân, 1.020 máy bay, 56 tàu chiến). Đối với chính quyền
Sài Gòn – chỗ dựa của Mỹ trong suốt 20 năm chiến tranh Việt Nam, Mỹ tận dụng
triệt để cuộc hội đàm Nguyễn Văn Thiệu – Nixon ở San Clementé (3/4/1973) để sử
dụng chế độ tay sai Sài Gòn do Thiệu cầm đầu làm công cụ phá hoại Hiệp định Paris,
tiếp tục cuộc chiến tranh theo công thức: Quân đội Sài Gòn + Viện trợ Mỹ + Chỉ
huy của Mỹ. Theo công thức này, Mỹ để lại cho Sài Gòn khoảng 10.000 người (gồm
các chuyên viên, chuyên gia kỹ thuật Mỹ),
25 vạn tấn vũ khí và hơn 1.000 máy bay các loại. Từ 29/1/1973, sau khi đã cuốn
cờ ra khỏi Việt Nam, Mỹ lén lút cung cấp cho Thiệu 694 máy bay, 580 xe tăng,
520 xe bọc thép, 800 pháo, 204 tàu chiến, 2,53 triệu tấn xăng dầu.
Dưới sự viện trợ về vũ khí và trang thiết bị của Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã
tiến hành bắt lính để tăng quân. Theo tài liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
lực lượng quân Sài Gòn những năm 1973 – 1974 đã tăng lên 710.000 quân (340.000
quân chủ lực), 1.500 khẩu pháo, 2.072 xe tăng thiết giáp, 1.850 máy bay, 1.611
tàu thuyền, tổng số dự trữ vật tư chiến tranh lên tới 1.930.000 tấn.
Đồng thời Mỹ cũng tăng cường viện trợ và lực lượng cố vấn Mỹ để chỉ huy các lực
lượng quân Sài Gòn tấn công cách mạng Việt Nam. Trong nhiệm kỳ hai của Nixon
(1972 – 1974) và nhiệm kỳ mới của Tổng thống Ford (1974 – 1975), tài khóa viện
trợ của Mỹ cho chính quyền Sài Gòn bị cắt giảm mạnh: Tài khóa 1972 – 1973 là
1.614 triệu USD, tài khóa 1973 – 1974 là 1.026 triệu USD và đến đầu năm 1975,
tài khóa của Mỹ bị giảm mạnh xuống còn 701 triệu USD – chỉ bằng 1/3 so với viện
trợ hằng năm từ 1970 - 1973.
Trong báo cáo gửi Lầu Năm Góc, Thiếu tướng Mỹ John Murray – Trưởng đoàn tùy
viên quân sự Hoa Kỳ (DAO) đã tính toán và kết luận như sau:
+ Nếu mức độ quân viện là 1,4 tỷ USD,
quân đội Sài Gòn có thể giữ được tất cả những khu đông dân cư ở 4 vùng chiến
thuật;
+ Nếu là 1,1 tỷ USD thì phải bỏ Quân khu
I;
+ Nếu là 0,9 tỷ USD thì khó lòng giữ
được quân khu I và II, hoặc khó đương đầu với cuộc tấn công của quân đội Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH);
+ Nếu là 0,75 tỷ USD thì chỉ phòng thủ
được vài khu vực chọn lọc;
+ Nếu dưới 0,6 tỷ USD thì quân đội Sài
Gòn chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Đây là sự tuột dốc thảm hại đến nỗi
Nguyễn Văn Thiệu phải thốt lên: “Đây như thể cho tôi 12 tỷ USD và bảo tôi bay
từ Sài Gòn đến Tokyo
bằng vé hạng nhất”.
Hầu hết số tiền viện trợ mà Mỹ trao cho chính quyền Sài Gòn đều quy ra trang
thiết bị. Nhưng trái ngược với sự mong đợi của Thiệu, các trang thiết bị mà Sài
Gòn sắp sở hữu “đều bị xuống cấp, hư hỏng (…) đây là những trang bị chính yếu
và rất cần phụ tùng thay thế…”.
Hơn nữa, Quốc hội Mỹ còn ra các quy định hạn chế việc chuyển đổi các khoản viện
trợ kinh tế sang mục đích khác (quân sự) làm cho tình hình Sài Gòn khó khăn.
Được huấn luyện theo mô-típ quân đội Mỹ, quân đội Sài Gòn thừa hưởng mọi thành
tựu khoa học quân sự của quân đội Mỹ. Quân đội Sài Gòn tự do luyện tập, bắn
pháo không hạn chế (bừa bãi) trong trận đánh và dùng khí tài vô tội vạ đã trở
thành bình thường khi họ còn chiến đấu bên cạnh quân Mỹ. Chính quyền và quân
đội Sài Gòn đã có hơn 18 năm lớn mạnh do được Mỹ ủng hộ và viện trợ; nhưng các
sức mạnh đó rõ ràng đã hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ. Khi Mỹ cắt viện trợ thì quân
đội Sài Gòn hầu như bị chới với, mất chỗ dựa. Các vũ khí, trang thiết bị chỉ
hoạt động cầm chừng và chưa hiệu quả, ảnh hưởng rất nhiều đến sức chiến đấu của
quân đội Sài Gòn. Một thống kê đưa ra (năm 1974) cho thấy sức chiến đấu của
quân đội Sài Gòn giảm gần 60% về hỏa lực vì thiếu bom và đạn pháo, tính cơ động
bị tụt xuống 50% vì sự hạn chế máy bay, xe cơ giới và xăng dầu.
Trong nội bộ chính quyền Sài Gòn, tệ nạn tham nhũng và tình trạng đào ngũ trong
quân đội lan tràn…,
nên mặc dù được quân Mỹ hỗ trợ mở 19.780 cuộc hành quân, 30.375 vụ ném bom và
31.075 cuộc hành quân cảnh sát,
nhưng quân đội Sài Gòn chưa giành được thắng lợi ở một số trận đánh lớn có tính
quyết định để giành lại các vùng nông thôn, đô thị mà chúng đã chiếm từ tay
quân ta sau Mậu thân 1968. Thất bại liên tiếp trên chiến trường làm quân đội
Sài Gòn chán chường, tinh thần binh sĩ xuống dốc một cách thảm hại.
Tình hình thảm hại của quân đội Sài Gòn
và sự bất lực của Mỹ trong việc giúp Sài Gòn chống lại quân ta đã tạo ra những
điều kiện, tiền đề để quân ta (tức quân đội VNDCCH) mà lãnh đạo tối cao là Bộ
Chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu… tiến hành vạch ra những kế sách
cách mạng cụ thể, tận dụng sự đồng tình và ủng hộ của các lực lượng quân đội,
nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế để tiến hành một cuộc tiến công mang tính
quyết định nhằm thực hiện triệt để lời di huấn của Bác Hồ trong Thư chúc mừng năm mới (1/1/1969) của
Người:
Vì
độc lập, vì tự do;
Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Thực hiện lời dặn dò của Người, toàn
Đảng và toàn quân dân ta quyết tâm đánh bại quân Mỹ - Sài Gòn trên các chiến
trường trên bộ và trên không; đấu trang ngoại giao quyết liệt với Mỹ trên bàn
đàm phán Paris
lịch sử. Mãi đến khi đã thất bại hoàn toàn ở trận Điện Biên Phủ trên không (12
ngày đêm của tháng 12/1972), ta đã buộc được Mỹ ngồi vào bàn đàm phán ở Hội
nghị Paris, ký
Hiệp định và quân Mỹ đã phải cuốn gói về nước. Tuy nhiên với bản chất ngoan cố,
Mỹ vẫn tìm cách phá hoại Hiệp định Paris, đưa quân Sài Gòn vào đánh chiếm các
vùng nông thôn, đô thị mà chúng gọi là “Đất thánh Việt cộng” – thực hiện nốt
những việc cuối của chiến lược Việt Nam
hóa chiến tranh của quân đội Mỹ - Sài Gòn bị ta làm phá sản bước đầu sau
đại thắng Điện Biên Phủ trên không năm 1972.
Quân ta do chưa lường trước tình hình và nhận định có phần chủ quan nên
liên tiếp bị quân địch đánh bại ở nhiều nơi. Đến giữa năm 1973, ở khu V quân
địch đã lấn chiếm vùng của ta hết 320 ấp với 26 vạn dân; ở khu VI và VII địch
lấn chiếm 308 ấp với 29 vạn dân; nhiều vùng giải phóng cũ và hầu hết vùng giải
phóng mới đều bị địch lấn chiếm và chúng lập thêm 1.774 đồn bót.
Mặc dù đã đánh chiếm lại các vùng giải phóng (nông thôn), giành thắng lợi bước
đầu nhưng do mất chỗ dựa là Mỹ (đã phân tích ở trên) và quân đội chiến đấu
không có mục đích, không lý tưởng và tinh thần bị suy sụp thảm hại, nên quân
đội Sài Gòn mặc dù thắng nhưng đó chỉ là chiến thắng nhất thời, chưa thể gọi là
một chiến thắng lâu dài được.
Ngược lại với sự xuống dốc thảm hại của
quân địch, sự bế tắt về chiến lược chiến tranh của chúng là sự đi lên về lực và
thế của ta – một yếu tố cơ bản đảm cho chiến thắng của ta về sau này. Bàn về
vấn đề “lực” trong quân sự, Bác Hồ nói: Lực là sức mạnh tổng hợp:
chính trị và quân sự, tiền tuyến và hậu phương, dân tộc và thời đại. Thực hiện
lời dạy của Bác, Bộ Chính trị và Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân tấn công
quân địch ở nhiều nơi: Trị - Thiên (8/1974), Quảng Nam (7 – 8/1974), Kontum (8
– 10/1974), Trà Vinh (12/1974), Rạch Giá (16/12/1975)….phá 830 ấp chiến lược,
giải phóng một vùng đất rộng lớn với 10 triệu dân.
Các căn cứ địa cách mạng như Dương Minh Châu, Đồng Tháp Mười, U Minh….nhanh
chóng được củng cố và xây dựng lại. Ở các đô thị, các cơ sở chính trị và tổ
chức quần chúng được củng cố vững chắc. Riêng ở Sài Gòn – Gia Định, trung tâm
đầu não của địch thì ta vẫn có các cơ sở chính trị ngay trong lòng địch. Đó là
các lõm chính trị, các cơ sở Đảng và các tổ chức quần chúng…; theo tài liệu
thống kê được thì trong thời gian trước và trong cuộc Tổng tiến công 1975, quân
dân Sài Gòn – Gia Định đã xây dựng được 40 lõm chính trị với 7.000 quần chúng
giành quyền làm chủ. Số cán bộ tập trung ở nội thành là 400 người, ngoại thành
hơn 1.000 người; số đảng viên nội thành và vùng ven là 1.290 người với hơn
1.000 người làm nòng cốt.
Quân Giải phóng miền Nam
được cải tiến và lập thêm mới 4 quân đoàn (quân đoàn 1, quân đoàn 2, quân đoàn
3, quân đoàn 4). Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được củng cố về tổ chức và cùng với các tổ
chức chính trị khác ở Việt Nam
đấu tranh chính trị - ngoại giao với Mỹ trên bàn đàm phán Paris lịch sử. Cuộc kháng chiến đầy gian khổ
của quân dân miền Nam
từ lâu đã có sự ủng hộ rất to lớn từ miền Bắc ruột thịt và bạn bè quốc tế. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến,
miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam
263.691 cán bộ chiến sĩ; hơn 3 vạn cán bộ, chiến sĩ và công nhân. Thanh niên
xung phong đã ngày đêm gấp rút nâng cấp đường vận tải chiến lược 559, mở rộng
từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn,
nâng tổng chiều dài của con đường mòn chiến lược Trường Sơn là 16.790 km; đưa
xe vận chuyển 20 vạn tấn hàng từ Bắc vào Nam. Các nước XHCN anh em như Liên Xô, Trung Quốc mặc dù bị hạn chế
bởi chiến lược ngoại giao nước lớn của Mỹ, nhưng vẫn tiếp tục viện trợ cho Việt
Nam. Năm 1973 – 1975, viện trợ của Liên Xô đạt 65.601 tấn
hàng hậu cần và trang bị vũ khí, kỹ thuật. Riêng Trung Quốc, trong 10 năm
(1965-1975) cũng đã viện trợ cho Việt Nam 4,847 triệu tấn lương thực, 262 triệu
mét vải, 89,1 nghìn tấn bông, 81,05 nghìn tấn sợi, 625,67 nghìn tấn sắt thép,
1,774 triệu tấn xăng, dầu mỡ các loại, 2.510 toa xe lửa, 32.496 chiếc ô tô,
1.400 chiếc máy ủi...”.
Về “thế” thì sau Hội nghị
Paris 1973, mặc dù bị mất đất, mất dân nhưng ta
vẫn tỉnh táo vạch lại chiến lược để tiếp tục đánh bại quân địch ở nhiều nơi. Đại
tướng Hoàng Văn Thái, trong cuộc họp Bộ Chính trị (tháng 10/1974) đã nhận định: “địch đã bị thất bại nghiêm trọng trong âm mưu và
kế hoạch bình định năm 1974. Chúng đang suy yếu toàn diện cả về quân sự, chính
trị, kinh tế. Tuy quân của chúng còn đông, nhưng bị Mĩ cắt giảm viện trợ tới
mức thấp nhất, trang thiết bị, vũ khí cũng không được thay thế đủ số lượng, đạn
dược thiếu. Tinh thần sĩ quan binh lính Sài Gòn rệu rã…”.
Đồng tình với nhận định trên, văn kiện của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 đánh giá:
“Diễn biến cơ bản của tình hình trong hai năm qua rõ ràng là ta ở thế thắng,
thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi. Địch ở thế thua, thế đi xuống, thế bị
động và khó khăn”.
Bộ Chính trị cũng khẳng định: “Mỹ không còn đủ sức can thiệp bằng không quân và
hải quân. Dù chúng có can thiệp ở mức độ nào, Mỹ cũng không đảo lộn được tình
thế, không cứu được bọn tay sai khỏi nguy cơ sụp đổ”.
Ngoài ra, sự ủng hộ của miền Bắc ruột thịt và các nước XHCN anh em, loài người
trên thế giới yêu chuộng…đã làm thế của ta lên rất cao. Và theo triết học duy
vật biện chứng, thế và lực không phải là hai sự vật riêng rẽ, mà ngược lại luôn
bổ sung và thống nhất cho nhau. Muốn giành toàn thắng trong một trận chiến,
việc đầu tiên là tạo lực – kết hợp sức mạnh của nhiều thành phần (quân sự,
chính trị, ngoại giao, quốc tế…) và sau là lập thế. Tác giả (M.Q) ví lực chính
là gốc cây, thế chính là ngọn cây. Lực có mạnh và vững chắc sẽ tạo điều kiện
cho thế xuất hiện. Khi thế đã phát triển (trên nền tảng từ lực) thì nó đồng
thời kéo theo lực ngày càng mạnh hơn và ngược lại. Người dạy: “Quả cân chỉ
một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng
được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là thế thắng lực”.
Người khẳng định: “Thế địch như lửa. Thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa”.
Có được thế và lực to lớn
và hội tụ đủ các điều kiện cần và đủ trong quá trình cách mạng, Đảng ta thông qua
văn kiện của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 đã nhận định: “Lúc này chúng
ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta
phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn,
ngoài thời cơ này ra không còn có thời cơ nào khác”. Do đó kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn
miền Nam
trong vòng hai năm 1975 - 1976 đã được Bộ Chính trị thông qua. Nhưng để đi đến
kết luận cuối cùng, Bộ Chính trị thấy cần phải nghiên cứu tình hình kỹ hơn nữa,
bổ sung kế hoạch tác chiến đầy đủ hơn nữa. Sở dĩ Bộ Chính trị ta trong năm 1974
đã nhận thấy thời cơ cách mạng đã xuất hiện nhưng chưa có kết luận cuối cùng,
vì: quân địch còn mạnh và chưa mất hoàn toàn ý chí chiến đấu, bộ máy chính
quyền và quân đội Sài Gòn vẫn còn khả năng củng cố; một số nước khác có ý đồ
lợi dụng Mỹ rút quân mà tranh giành ảnh hưởng đối với khu vực Đông Dương và
Đông Nam Á. Trong khi đó, thế và lực của ta đang dâng cao, đang rất mạnh mẽ;
chỉ cần chờ “dịp” (hay thời cơ) là sẽ mở cuộc Tổng tấn công. Bộ Chính trị cũng
lưu ý: dựa vào tình hình hiện tại (1974 – 1975), việc tạo và chớp thời cơ giành
thắng lợi hoàn toàn càng trở nên cấp thiết; nhưng “nếu để chậm mươi, mười lăm
năm nữa, bọn ngụy (tức Sài Gòn, M.Q chú) gượng dậy được, các thế lực xâm lược
được phục hồi… thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng. Thời cơ này đòi hỏi phải làm
nhanh, làm gọn, làm triệt để nhưng phải khôn khéo”.
Do vậy, Bộ đã hạ quyết tâm: “Động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối
cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm
tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng
như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp,
giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất
nước nhà. Ngay từ bây giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn
trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh,
thắng gọn và thắng triệt để trong 2 năm 1975-1976”.
Từ 18/12/1974 đến 8/1/1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng
được khai mạc ở Hà Nội để xác định quyết tâm cuối cùng. Trong lúc Bộ Chính trị
đang họp, tình hình chiến trường vẫn sôi động mà nổi bật là chiến thắng Phước
Long (1/1975). Từ đêm 30 rạng 31/12/1974, quân ta cùng với các chiến xa (báo Trắng Đen, 2/1/1975) mở cuộc tấn công
bất ngờ vào quận lỵ Phước Bình (thuộc tỉnh Phước Long) với mục đích khai thông
đường 14 và cả đường Trường Sơn, tạo điều kiện cho miền Bắc chi viện tốt vào
miền Nam ruột thịt. Qua hơn 1 tuần chiến đấu, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước
Long, loại khỏi vòng chiến đấu 1.180 tên (Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn nói chúng
mất tới 8.000 tên), bên ta thiệt hại không đáng kể. Chiến thắng Phước Long cho
thấy quân Sài Gòn đã suy yếu và không còn khả năng chống trả. Hoa Kỳ không quan
tâm vấn đề Việt Nam nữa. Trong cuộc họp báo ngày 14-1-1975 Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ R. Schlesinger nói: “Bây giờ tình hình ở miền Nam cho thấy Bắc Việt Nam không muốn tung ra một đòn tấn
công rộng khắp, quy mô. Cái mà họ đang chú ý là làm suy yếu sự kiểm soát của
chế độ Nam Việt Nam
trên khắp nước, đặc biệt là làm đảo lộn chính sách bình định đang thành công.
Do đó, điều mà chúng ta tiên đoán trong vài tháng tới chỉ là một số trận đánh
lớn. Lúc này tôi không tin hiện sẽ có cuộc tiến công quy mô lớn như hồi năm
1972”. Ngày 22-1-1975 Tổng thống Ford tiếp tục dội một gáo nước lạnh vào chế độ
Thiệu: “Không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn. Sẽ
không can thiệp vào miền Nam Việt Nam nếu xét ra không phù hợp với
hiến pháp và pháp luật”. Trong khi đó, Pháp (kẻ thù cũ của nước ta) nhân lúc Mỹ
đã gần như bó tay và không còn can dự vào nội bộ Sài Gòn nữa, đã dùng “giải
pháp chính trị” với Sài Gòn. “Ông chủ” Mỹ và Pháp từ lâu đã chán ngấy chính
quyền Sài Gòn của Thiệu, đã âm mưu tìm cách “thay ngựa giữa dòng” – loại bỏ
Thiệu và đưa một người khác lên thay, đồng thời tìm cách đàm phán với đại diện
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng Lâm thời để xúc tiến
“thành lập một chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần là các nhân vật thuộc
chính phủ Việt Nam Cộng hòa, phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời và thành phần
thứ ba được mệnh danh là trung lập (tin từ đài BBC)”.
Những việc làm này, Pháp nhằm mục đích cứu vãn chính quyền Sài Gòn đang thoi
thóp, giữ vững lợi ích về kinh tế, chính trị và văn hóa mà Sài Gòn là nơi “tập
trung” nhiều lợi ích của chúng (Pháp) ở đây; đó là các đồn điền cao su và khá
đông kiều bào Pháp đang gây ảnh hưởng đến tầng lớp trí thức và một số người
thuộc các tổ chức đứng về lực lượng thứ ba”.
Nhưng về sau, do sức tấn công của ta vào Sài Gòn mà mọi nỗ lực hòa giải, cứu
vãn chính quyền Sài Gòn của Pháp bị vô hiệu. Đối với ta, chiến thắng này có ý
nghĩa như một “đòn trinh sát chiến lược” thăm dò phản ứng của địch (Mỹ và quân
đội Sài Gòn). Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã
nhận xét: “Chiến thắng này đã mở ra tiền đề cho cách mạng miền Nam, thần tốc tiến lên giải phóng hoàn toàn miền
Nam”.
Nó chứng tỏ những nhận định của Bộ Chính trị là hoàn toàn chính xác.
Kết thúc hội nghị, đồng chí Lê
Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nói: “Chúng ta đang đứng
trước thời cơ chiến lược lớn, chưa
bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ
chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam để tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”.
Văn kiện hội nghị đã nhận định: “cả năm 1975
là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị
thúc đẩy thời cơ… cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu đã có thời cơ
mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn với cả dân tộc”. Từ kết luận hội nghị, Bộ Chính trị hạ
quyết tâm: “Động
viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong
thời gian 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp
với đấu tranh ngoại giao… tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiêu diệt
và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, giành
chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam…”.
Ngày 7/1/1975, tin chiến
thắng Phước Long tràn về làm Hội nghị Bộ Chính trị đông vui hẳn lên và ngay
ngày hôm sau (8/1/1975), Bộ Chính trị quyết định họp hội nghị Bộ Chính trị mở
rộng 20 ngày với kết luận: “Khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp hiện nay
đang gặp nhiều khó khăn.nếu nguy cơ sụp đổ lớn ta cần đề phòng Mỹ có thể can
thiệp bằng không quân, hải quân nhưng không phải để mở rộng chiến tranh mà là
cứu vãn chính quyền Sài Gòn. Dù chúng có can thiệp thế nào ta cũng có đầy đủ
quyết tâm và điều kiện để đánh thắng chúng. Chúng ta đang đứng trước thời cơ
chiến lược chưa bao giờ có để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam
tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Hội nghị nhấn mạnh "cả năm 1975 là thời cơ" và chỉ rõ "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền
Nam trong năm 1975".
Như vậy có thể nói, việc chọn thời cơ
và xác định đúng thời điểm để phát huy thời cơ đó là một nghệ thuật trong lãnh
đạo quân sự của Bộ Chính trị và Đảng, Bộ Tổng tham mưu tối cao. Suy luận ra,
nếu chọn đúng thời cơ và sử dụng thời gian hợp lý và chính xác thì những yếu tố
thuận lợi của ta vẫn được bảo toàn, ít bị thiệt hại và quân địch không còn khả
năng củng cố lại lực lượng trong khi thế và lực của chúng bị suy yếu toàn diện,
không thể nào ngóc dậy nổi. Ngược lại, nếu đã có thời cơ rồi, nhưng thời gian
của cuộc chiến để thực hiện thời cơ đó lại kéo dài thêm một, hai năm nữa thì
cái thuận lợi của ta mất dần mà địch có khả năng củng cố trở lại. Thứ nhất, kinh tế miền Bắc mặc dù phát
triển mạnh bằng năm 1965, nhưng vẫn phải nhập khẩu 40 vạn tấn lương thực mỗi
năm. Gánh nặng miền Nam
ngày càng chồng chất trong khi Liên Xô, Trung Quốc hạn chế viện trợ; phe Khmer
Đỏ trở mặt chống đối ta và bắn giết quân ta từ năm 1972. Thứ hai, chính quyền Sài Gòn được sự viện trợ từ Mỹ, có thể phục
hồi kinh tế nhanh chóng, nhờ vào những cơ sở có sẵn. Mỹ rút mà chiến tranh còn
kéo dài thì ngọn cờ giải phóng dân tộc trong tay ta không còn được sự ủng hộ
mạnh mẽ như trước. Thứ ba, thời cơ đã
đến mà chiến tranh vẫn kéo dài 1 – 2 năm thì dù ta giành thắng lợi đúng kế
hoạch, nhưng ta sẽ chịu rất nhiều thiệt hại. Miền Nam bị tàn phá nặng nề, hai miền
đều kiệt quệ vì vết thương chiến tranh quá nặng thì công cuộc khôi phục lại sẽ
gặp nhiều khó khăn gấp bội, trong lúc các nước quanh ta phát triển khá cao và
nhanh.
2.
Sự vận dụng sáng tạo, tài tình nghệ thuật tạo thời cơ
trong các chiến dịch Tổng tấn công năm 1975
Tuân thủ triệt để nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính
trị, ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Trước khi chiến dịch nổ ra, địch cũng từng
nhận định “Tây Nguyên là nóc nhà của Đông Dương, nếu
ai chiếm, giữ được Tây Nguyên thì sẽ làm chủ 3 nước Đông Dương”. Ngoài ra,
chúng cũng nhận định “sức và lực” của quân ta thời kỳ 1974 – 1975 không mạnh
bằng thời kỳ năm 1972, đồng thời cũng cho rằng ta chưa có khả năng đánh thị xã
lớn hoặc thành phố, dù có đánh cũng không giữ được. Địch dự đoán hướng tiến
công của ta vào đầu năm 1975 là vùng Đông Nam Bộ. Phía ta cũng đã phân tích kỹ
tình hình, khẳng định lại quyết tâm đánh chiếm Tây Nguyên vì theo ý kiến của Thượng
tướng, GS Hoàng Minh Thảo, Buôn Ma Thuột là một trung tâm chính trị - văn hóa
hơn là trung tâm quân sự, nó ở thế hiểm (vùng rừng núi), phù hợp với cách đánh
truyền thống mà quân đội ta thường sử dụng – đánh du kích, phục kích tấn công địch bất ngờ và táo bạo trên địa
hình hiểm trở, khó khăn.
Để thực hiện, ta điều Quân đoàn 2
đóng chốt ở miền tây Thừa Thiên Huế và Quân đoàn 4 đóng chốt ở Đồng Nai để thu
hút địch rời bỏ Tây Nguyên. Phát hiện sự thay đổi bất ngờ về bố trí quân đội
của ta và lo sợ bị mất Sài Gòn, Huế-Đà Nẵng còn nặng hơn Plei-ku và Buôn Ma
Thuột, địch đưa quân từ Tây Nguyên lên giữ chặt Sài Gòn và Huế, làm cho Tây
Nguyên bị hở. Lợi dụng sự sơ hở này của chúng, ta bất ngờ tăng thêm Sư đoàn
316, Sư đoàn 968 và chọn Buôn Ma Thuột làm nơi tiến công. Nhận thấy lực lượng của
địch ở Buôn Ma Thuột khá mạnh, quân ta đã học cách đánh của ông cha ta xưa
“tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ vững đánh chỗ núng (lời của Nguyễn
Trãi)”, ta tiến hành nghi binh và thu hút địch đánh lên Plei-ku, rồi lợi dụng
cơ hội quân địch đang sơ hở ở Buôn Ma Thuột mà nổ súng tấn công thị xã này, làm
quân địch hoàn toàn bị bất ngờ. Sau hai ngày chiến đấu, ta làm chủ Buôn Ma
Thuột (11/3/1975). Tin thắng lợi này làm quân ta rất phấn khởi, Bộ Chính trị
liền đi đến kết luận: Ta có thể giành thắng lợi lớn nhanh hơn dự kiến. Báo chí
phương Tây thì bình luận: “Buôn Ma Thuột mất thì toàn vùng Tây Nguyên đứng vững
sao nổi”.
Còn báo chí của Sài Gòn đồng loạt đưa tin:
“Toàn quốc còn 7 tỉnh bị uy hiếp nặng
Thủy quân lục chiến: Lập tuyến thép –
Bảo vệ cố đô Huế
Cộng quân còn cách Huế 10 dặm. chi
khu Phú Lộc bị tràn ngập….
Phi cơ dân sự không đáp xuống được” (Trắng Đen, ngày 23/3/1975)
Quả đúng như vậy, sau khi vừa mất
Buôn Ma Thuột, địch vội điều liên đoàn biệt động quân số 6, 7 và 23 đến đóng ở
đường số 7 ở phía nam Tây Nguyên (từ Ngã ba Mỹ Trạch đến Cheo Reo, Tu Na) để
phản kích hòng chiếm lại. Song chúng đã bị các tiểu đoàn của Trung đoàn 64 tiêu
diệt gần hết. Quá hoảng sợ, địch buộc phải rút chạy ra khỏi Tây Nguyên. Tên
chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy cuộc tháo chạy, phải kêu lên: “Tổn thất quá
nặng nề gần như tan rã”, “Liên đoàn 23 biệt động quân thường xuyên phải đối đầu
với Sư đoàn 320, thường xuyên bị tấn kích”.
Thừa thắng xông lên, quân ta truy kích và tiêu diệt toàn bộ quân địch trên
đường rút chạy, Tây Nguyên được giải phóng (24/3/1975). Tiếp đó, lợi dụng các
sai lầm về chiến lược của quân địch khi chúng đang âm mưu co cụm, giữ vững vùng
duyên hải (lời của Phạm Văn Phú)
để chuẩn bị phản kích, Sư đoàn 320 của ta phối hợp với lực lượng ở các địa
phương tấn công địch ở Thanh Bình, Phú Yên, Tuy Hòa, Quy Nhơn…, gây cho chúng
nhiều thất bại nặng nề. Việc chính quyền Sài Gòn được thông báo về sự thất bại
quân sự này được thể hiện rõ qua ghi nhận của các tờ báo ở Sài Gòn: “Quy Nhơn,
Nha Trang, Tuy Hòa mất liên lạc điện thoại quân sự trong cùng một ngày” (Độc lập, ngày 3/4/1975) hay “Liên tiếp
trong ngày 1/4 Quy Nhơn, Nha Trang, Tuy Hòa, Đà Lạt đứt liên lạc” (Chính luận, ngày 3/4/1975).
Sự thất bại liên tiếp, cộng với những sai lầm về mặt chiến lược đã đẩy địch từ
thế phòng ngự chiến lược sang thế phải rút lui, co cụm về chiến lược. Thời cơ chiến lược để giành thắng lợi hoàn
toàn sớm hơn dự kiến đã xuất hiện. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã
quyết định chuyển từ kế hoạch 2 năm sang kế hoạch giành thắng lợi ngay trong
năm 1975. Quyết định này chứng tỏ Đảng ta với nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh
tài tình đã không dừng lại ở bước nắm đúng thời cơ mà khi thời cơ xuất hiện
nhanh hơn dự kiến đã kịp thời hành động tranh thủ giành thắng lợi lớn hơn,
nhanh hơn. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng.
Ngày 21/3/1975, phán
đoán quân địch đang hoang mang rút chạy qua khỏi Quảng Trị (do tác động thắng
lợi của ta ở Tây Nguyên và hoạt động mạnh mẽ của lực lượng tại chỗ) có thể tiến
vào Đà Nẵng, các lực lượng vũ trang của ta bao gồm Quân đoàn 2, lực lượng vũ
tranh quân khu Trị Thiên Huế (B5 cũ) đã nhanh chóng thọc sâu, chia cắt, triệt
đường rút chạy vào Đà Nẵng, hình thành thế bao vây chiến dịch đối với Huế. Khi
Huế bị vây tứ phía, Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tướng Ngô
Quang Trưởng phải “tử thủ”. Trong bài phỏng vấn cho phóng viên Pháp Jean Claude Pomonti (2013) – tác giả của bài viết:
"Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời", Đại tướng Võ
Nguyên Giáp hồi tưởng lại: “Chính
quyền Sài Gòn của Nguyễn Văn Thiệu, ra lệnh cho chỉ huy địa phương, tướng Ngô
Quang Trưởng phải “tử thủ”. Tôi lệnh cho sư đoàn 312 tấn công Đà Nẵng. Viên chỉ
huy trả lời tôi: "Quân địch còn khá mạnh, tôi xin 7 ngày". Đại
tướng hỏi: "Tôi cho rằng Ngô Quang Trưởng sẽ rút bằng đường biển. Hắn ta
phải mất bao nhiêu lâu?". "Ít ra là 3 ngày."- Viên chỉ huy trả
lời bằng điện báo. "Vậy thì tôi cho anh 3 ngày. Lệnh cho các đơn vị hành
tiến giữa ban ngày, xuống Quốc lộ 1. Các anh sẽ bị pháo hải quân đối phương
oanh tạc nhưng không sao!". Đúng
như lời dự đoán của Đại tướng, quân Sài Gòn mặc dù ra sức tử thủ, nhưng trước
thế trận bao vây và tấn công ồ ạt của quân ta, quân địch thất bại và phải rút
khỏi Huế với hơn 4 vạn tên bị tan rã, thành phố Huế được giải phóng (25/3/1975).
Tiếp nối thắng lợi ở Huế, Bộ Chính trị họp và tiếp tục
khẳng định: “Thời cơ chiến lược đã
tới. trong suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này”. Từ nhận định này, Bộ Chính trị quyết tâm:
“Nắm vững thời cơ chiến lược mới tranh thủ thời gian cao độ nhanh chóng tập
trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo và bất ngờ, làm cho
địch không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”.
Thực hiện nghiêm nghị quyết của hội nghị Bộ Chính trị và thừa thắng xông lên
sau thắng lợi giòn giã ở Thừa Thiên Huế, quân ta liên tiếp tấn công và giải
phóng Quảng Nam,
Quảng Ngãi, làm cho quân địch ở thành phố Đà Nẵng bị cô lập. Mặc dù Tổng thống
Thiệu đã gửi công điện cho tướng Ngô Quang Trưởng – Tư lệnh quân đoàn 1 phải
“tử thủ” để giữ cho được Đà Nẵng, nhưng
trước sức tấn công của Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang ở các địa phương của
ta, trong hai ngày 27 và 28/3/1975, Tổng lãnh sự và Bộ chỉ huy Quân đoàn 1 Sài
Gòn đã phải bỏ chạy khỏi Đà Nẵng. Nhà
báo Alan Dawson mô tả Đà Nẵng trong ngày 28 tháng 3: "Binh lính rã ngũ nổi loạn, cố sức thoát ra hoặc vơ vét cái gì có thể
kiếm được trong khoái lạc bắn giết và cướp bóc. Các tướng tá thì đang hoạch
định các chuyến bay để bí mật trốn thoát... Suốt đêm, sự huỷ hoại, vơ vét, trộm
cướp và hãm hiếp tiếp diễn. Toà nhà lãnh sự Mỹ, con voi trắng bị lột chỉ còn
trơ cái vỏ". Như vậy, đến ngày
29/3/1975, chỉ sau 32 giờ tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng
thành phố Đà Nẵng, diệt và làm tan rã hơn 10 vạn quân địch, đập tan căn cứ liên
hợp quân sự mạnh nhất của địch ở miền Trung, xóa bỏ Quân khu 1 của chính quyền
Sài Gòn, phá vỡ thế mạnh ở đầu phía bắc của địch. Đồng thời, đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng đã góp phần quyết định
và làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng. Lúc này, “so sánh thế và lực trên chiến
trường có sự chuyển biến vượt bậc. Hai trong 4 quân khu của địch đã bị xóa sổ.
Lực lượng chúng bị giảm đi một nửa, số còn lại lâm vào tình trạng tuyệt vọng,
bị suy sụp lớn về tinh thần”.
Sau thắng lợi ở chiến dịch Huế - Đà Nẵng,
tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị kết luận: “cuộc chiến
tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy
vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào
sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến
lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt
đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam,
thống nhất nước nhà”.
Trên cơ sở đà phát triển ngày càng sôi nổi, mạnh mẽ của cách mạng miền Nam theo
nhịp độ “một ngày bằng 20 năm”, Bộ Chính trị quyết định: “Nắm vững hơn nữa thời
cơ chiến lược với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, bất ngờ chắc thắng, có quyết tâm
lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt
nhất là trong tháng 4, không được để chậm”.
Đại tướng Võ Nguyên
Giáp chỉ đạo: “Một ngày bằng 20 năm, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo
bạo hơn nữa; tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước”. Lúc
này, Sài Gòn – Gia Định được chọn là hướng tiến công chiến lược chủ yếu và cũng
là mục tiêu chiến lược cuối cùng.
Cũng giống như chiến trường Huế - Đà
Nẵng, trước khi mở chiến dịch tổng tiến công vào Sài Gòn, quân ta tập trung lực
lượng để công phá hai “hàng rào chiến lược” bảo vệ Sài Gòn từ phía Bắc là Phan
Rang, Xuân Lộc nhằm cô lập thành phố Sài Gòn (đầu não của chính quyền Sài Gòn) và
tạo thêm thế và lực để dễ tiến công vào Sài Gòn – Gia Định. Mặc dù quân địch đã
cố gắng lập tuyến phòng thủ và tăng cường quân đội, nhưng trước sức tấn công
của quân ta mà đại diện là Quân đoàn 4, tuyến Phan Rang - Xuân Lộc, hệ thống
phòng thủ mạnh nhất của địch bị phá tan, “cánh cổng” tiến vào Sài Gòn của quân
dân ta đã mở. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch giải phóng Sài
Gòn mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Chiều ngày 26-4, trận quyết chiến cuối
cùng bắt đầu. Đến 11h30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ chiến thắng của ta đã tung
bay trên nóc dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
Thế là, với sự nỗ lực vượt bậc trong tạo
thế, tạo lực, tạo thời cơ, dự kiến đúng xu thế phát triển của tình thế, nắm và
chớp thời cơ kịp thời, chọn hướng đúng, hạ quyết tâm chiến lược chính xác,
chúng ta đã thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 chỉ trong 55
ngày đêm, thay vì 2 năm như kế hoạch đã đề ra, thu non sông về một mối. Từ thực
tiễn tổng tấn công mùa xuân 1975, ta rút ra một số điểm về nghệ thuật tạo thời
cơ trong Tổng tấn công năm 1975 như sau:
- Thời cơ chiến lược trong Tổng tấn công
năm 1975 diễn ra khi ta hội đủ các điều kiện khách quan và chủ quan tốt nhất
(điều kiện khách quan là sự suy sụp về chính trị, quân sự và kinh tế của địch,
tình hình quốc tế bất lợi với địch; còn về chủ quan là thế và lực của ta đang
lên trên chiến trường) mà trong đó, điều kiện chủ quan là quyết định tất cả. Lê
Duẩn đã nhận định: “nếu không có sẵn thực lực cách mạng đến mức đủ mạnh thì
không thể tạo được thời cơ và khi thời cơ đến thì không kịp lợi dụng nó”.
Trong kháng Mỹ cứu nước, có những thời điểm mà những điều kiện bên trong của ta
đã chín mùi tạo các bước ngoặt trong chiến tranh, nhưng điều kiện bên ngoài lúc
này chưa thuận lợi (quân địch còn mạnh, tình hình quốc tế khá thuận lợi cho
địch hơn là cho ta) nên ta chưa thể giành được một chiến thắng có tính quyết
định, mà chỉ có thể giành chiến thắng từng bước qua những trận chiến lớn nhỏ
khác nhau (1965, 1968, 1972). Phải đến cuối năm 1974 – đầu năm 1975, trong điều
kiện thuận lợi (địch bị suy yếu về mọi mặt, Mỹ bị khủng hoảng nội bộ toàn diện
và bản thân chúng phải rút khỏi Việt Nam rất ê chề) và thế - lực của ta
đang lên rất cao. Cho dù Mỹ có dùng thủ đoạn ngoại giao mới với các ý đồ chiến
lược mới với nước ta, nhưng trong thực tế là khi Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, khó quay trở lại nước ta thì những âm mưu,
chiến lược mới mà chúng sắp sử dụng ở Việt Nam sẽ không thực hiện được. Lợi
dụng tình hình thuận lợi này, Đảng ta đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ, quyết
định mở cuộc Tổng tấn công 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước.
- Khi đã tạo được thời cơ thuận lợi mà
không kịp thời nắm bắt thời cơ để tiến lên giành thắng lợi quyết định thì thời
cơ đó cũng không có giá trị. Đây thực chất là nghệ thuật sử dụng thời gian
trong khởi nghĩa, chiến tranh cách mạng mà các nhà lý luận quân sự Angghen,
Lenin nhiều lần đề cập trong các tác phẩm của mình. Muốn sử dụng được thời gian
của thời cơ khi đã có thời cơ, ta phải đánh giá đúng so sánh tương quan lực
lượng ta – địch, dự đoán chính xác những khả năng có thể xảy ra. Thực tế là
vậy: trong cuộc kháng Mỹ cứu nước, Đảng ta nhiều lần hạ quyết tâm chính xác
(đồng khởi, quyết tâm đánh Mỹ, tiến công đồng loạt mùa xuân 1968, tiến công
chiến lược 1972), song nổi bật nhất là việc nắm bắt thời cơ và đề ra chủ trương
chiến lược sắc bén, kịp thời của giai đoạn cuối cuộc kháng Mỹ cứu nước. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976 đã đánh giá: Thành công nổi
bật về chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ là:
“Nhận rõ âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta
và địch, đề ra chủ trương chiến lược chính xác, sắc bén và linh hoạt để đánh
bại những âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ, ngụy (Sài Gòn) trong từng
thời kỳ, đi đến chiến thắng hoàn toàn chiến tranh xâm lược của chúng”. Về phía
quân Mỹ, nhiều sử gia đã đánh giá: quân Mỹ thất bại ở Việt Nam vì không hiểu biết gì về
lịch sử Việt Nam,
không đánh giá chính xác so sánh lực lượng giữa hai bên và…cái cuối cùng có lẽ
là thất bại đau đớn nhất của Mỹ là chưa đánh giá sức mạnh tinh thần (tinh thần
ái quốc, yêu nước) của người Việt Nam. Các nhà nghiên cứu xác nhận: “Tinh thần
ái quốc là sức mạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam” và cho rằng “Kẻ thù của đất
nước này đã không thấy được sức mạnh đó”, do đó họ (Mỹ) phải thừa nhận sự thất
bại này. Tướng Mỹ là W. Westmoreland thừa nhận: “lịch sử rất có thể đánh giá
rằng nhảy vào Việt Nam
là một trong những sai lầm lớn nhất của đất nước Mỹ”. Trả lời phỏng vấn tờ báo
Times ngày 12/5/1975, ông nói: "… Đây là một ngày đáng buồn cho lịch sử
quang vinh của đất nước chúng ta”.
- Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến
tranh, trong bối cảnh tình hình có thể phát triển đột biến “một ngày bằng 20
năm” thì ta nên có cái nhìn biện chứng và quan điểm phát triển, chuẩn bị mọi
mặt và sẵn sàng đón nhận thời cơ mới phát sinh, quyết đoán rất táo bạo và hạ
quyết tâm kịp thời để giành thắng lợi quyết định. Thực tế đã được chứng minh:
từ kế hoạch ban đầu giải phóng miền Nam trong vòng hai năm, sau khi
Buôn Ma Thuột được giải phóng thì thời cơ lúc này đã xuất hiện, Bộ Chính trị đã
hạ xuống còn một năm. Khi quân Sài Gòn tan rã hoàn toàn sau chiến dịch Huế - Đà
Nẵng, Bộ Chính trị lại chủ trương thần tốc và táo bạo. Quả đúng như vậy: các
cuộc tấn công bất ngờ và táo bạo của quân ta vào Sài Gòn – Gia Định làm quân
địch hoảng loạn, bất ngờ và nhiều tên đã phải bỏ chạy. Chính các tướng tá của
chính quyền Sài Gòn cũng phải thốt lên: “Mọi sự đều độc nhất trong ngày tàn của
chiến tranh Việt Nam.
Ba đời Tổng thống trong gần một tuần lễ (Thiệu, Hương, Minh), một đạo binh (gần
1 triệu người) tan rã trong 2 tháng”.
3.
Những điểm tương đồng, khác biệt trong nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong
cách mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975.
Đây là một vấn đề chúng ta sẽ phải xem
xét khi tìm hiểu về thời cơ trong cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam.
Chúng ta sẽ tìm những nét tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tạo và chớp
thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975 (có liên hệ
với cách mạng tháng Mười Nga 1917 – tiền đề và là chỗ dựa định hướng cách mạng
các nước, nhất là cách mạng Việt Nam) qua các khía cạnh: điều kiện chủ quan và
khách quan, chọn thời gian; chuẩn bị lực lượng cách mạng và cách thức tiến hành
cách mạng khi thời cơ đến.
Xét về khía cạnh điều kiện chủ quan và
khách quan, nghệ thuật chớp thời cơ ở cách mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa
xuân 1975 đều diễn ra trong điều kiện thuận lợi: về phía ta, ta mạnh về thế và
lực; quân địch suy yếu toàn diện không còn khả năng chống cự lại được nữa. Trước
cách mạng tháng Tám, Đảng và quân dân ta đã có một sự chuẩn bị kỹ lưỡng về
đường lối chiến lược, tổ chức cũng như lực lượng. Trong cuốn “Làm gì ?”, Lenin
đã đề cao vai trò của Đảng Bolshevich Nga với tư cách là tổ chức kế thừa tư
tưởng của chủ nghĩa Mác-Lenin làm nòng cốt, tính đến điều kiện khách quan và
nhu cầu cách mạng của quần chúng, dựa vào quần chúng
để làm cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi. Trải qua thực tiễn các Cao
trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939, Đảng ta đã tích lũy kinh nghiệm cách
mạng và xây dựng thực lực cách mạng: lập 3 trung đoàn Cứu quốc quân (về sau là
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân), củng cố các tổ chức chính trị và
đoàn thể…; năm 1944 thì đội quân đầu tiên của Đảng đã đánh thắng Pháp ở hai
trận Phay Khắc, Nà Ngần (Cao Bằng), tạo được thế và lực lớn – điều kiện chủ
quan thuận lợi cho cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám nổ ra trong điều
kiện thuận lợi: quân Đồng minh (Liên Xô, Anh và Mỹ) đánh bại quân phát xít ở
nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn ở miền tây nam Liên Xô, Đông Âu,
Bắc Phi…, trong khi đó ở Đông Dương quân phát xít Nhật khiếp sợ và hoảng loạn
khi nghe tin thất bại trên các chiến trường. Tương tự như vậy, Đại thắng mùa
xuân 1975 đã diễn ra trong những điều kiện thuận lợi: thế và lực của ta đang
lên trên chiến trường (điều kiện chủ quan), quân địch bị suy sụp về mọi mặt.
Đúng như vậy, sau Hiệp định Paris 1973, quân đội
Sài Gòn bị suy yếu và liên tiếp thất bại trên các chiến trường, Mỹ bị khủng
hoảng nội bộ toàn diện và bản thân chúng phải rút khỏi Việt Nam rất ê chề, không còn khả năng can dự vào
chiến tranh Việt Nam.
Thế và lực của ta lên rất cao sau Hiệp định Paris. Quân dân ta đánh nhanh và mạnh, giành
toàn thắng trên các chiến trường.
Tuy nhiên, vấn đề điều kiện thuận lợi trong nghệ thuật
chớp thời cơ ở cách mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975 cũng có
nhiều điểm khác biệt. Đại thắng mùa xuân 1975 diễn ra khi quân ta đánh thắng
trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; đây là điểm khác biệt
của Đại thắng mùa xuân 1975 so với cách mạng tháng Tám 1945. Cách mạng tháng
Tám 1945 chỉ giành thắng lợi về quân sự, tức là chỉ đánh bại quân Nhật, lật đổ
chính quyền thuộc địa Pháp để “bắt đầu của một
thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ
cho thời đại phi thực dân hóa”.
Cách mạng tháng Tám đã dùng sức mạnh của toàn thể quân dân ta để đánh đổ thực
dân Pháp và đế quốc Nhật – dùng sức mạnh quân sự để thực hiện cuộc “giải phóng
dân tộc” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần VIII, 1941), riêng sức mạnh
về chính trị và ngoại giao lúc này chưa có vì sau Thế chiến thứ Hai, các nước
đế quốc câu kết với lực lượng phản động trong nước để âm mưu xâm lược Đông
Dương. Hơn nữa, vì nhiều lý do khác nhau, Liên Xô và tổ chức Quốc tế Cộng sản
chưa có hành động ủng hộ và Hồ Chí Minh trong cuộc cách mạng này.
Việt Nam
tiến hành cách mạng tháng Tám trong tình thế đất nước sắp bị rơi vào tình thế
ngặt nghèo (bị kẻ thù bao vây tứ phía). Đại thắng mùa xuân 1975 diễn ra trong
điều kiện thuận lợi: Về phía địch, chúng bị thất bại nặng nề trên các chiến
trường ở ba nước Đông Dương, chính trị và ngoại giao bị suy sụp vì bị Mỹ “bỏ
rơi” và các nước “đồng minh” không đồng tình, ủng hộ. Mỹ bị cô lập trên trường
quốc tế và hầu như không còn can thiệp vào chiến trường Việt Nam sau sự kiện
năm 1973. Trong khi đó, ta đã mạnh lên về thế và lực (đánh thắng nhiều trận
lớn, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn; lực lượng phát triển mạnh). Đấu tranh
chính trị - ngoại giao của ta đạt nhiều thắng lợi. Dư luận quốc tế tỏ ra đồng
tình và ủng hộ cuộc cách mạng của quân dân ta, các nước XHCN anh em Liên Xô,
Trung Quốc, Cuba… và các nước XHCN khác đồng tình và ủng hộ, viện trợ lương
thực và vũ khí cho cách mạng Việt Nam.
Việc chọn thời gian và quyết định cho
thời cơ cách mạng ở cách
mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975 tương đồng ở chỗ là đã xác định
được thời gian và chọn thời gian phù hợp với thời cơ chiến lược mà Đảng và
Chính phủ hoạch định từ trước sau một thời gian chuẩn bị lâu dài về đường lối
chiến lược. Trong cách mạng tháng Tám, vấn đề chọn thời gian và chớp thời cơ
được Trung ương Đảng dựa vào tình hình cách mạng Việt Nam và tình
hình quốc tế cân nhắc kỹ lưỡng. Cách mạng Việt Nam sau các cao trào cách mạng kể
từ khi Đảng ra đời (1930 – 1945), đã tích lũy đủ lực lượng quân sự, lực lượng
chính trị…vững mạnh, thế và lực của ta đang lên rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã rất sáng suốt khi chọn thời cơ cho cách mạng tháng Tám. Vận dụng bài học về
chớp thời cơ trong cách mạng tháng Mười Nga 1917, Người đã đúng khi chớp thời
cơ cho cách mạng vào lúc quân phát xít thất bại ở khắp nơi. Ở Đông Nam Á (có
Việt Nam),
phát xít Nhật đã thất bại trên các chiến trường, đã suy yếu không còn sức kháng
cự nữa. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật đang hoang mang cực độ. Về phía ta,
ta đã có một sự chuẩn bị lâu dài về lực lượng, đường lối cách mạng đúng đắn và
sáng tạo; được toàn dân ủng hộ. Tương tự như vậy, thời cơ trong Đại thắng mùa
xuân diễn ra vào lúc quân đội Sài Gòn gặp nhiều thất bại và không còn sức chống
trả lại nữa. Quân Mỹ, chỗ dựa chính của chính quyền Sài Gòn thì đã rút đi từ
năm 1973 và không bao giờ quay trở lại. Chính quyền Sài Gòn suy yếu và hoang
mang cực độ. Trong khi đó, thế và lực của ta đang lên trên nhiều mặt. Một điểm
tương đồng nữa là, thời gian cho thời cơ
chiến lược mà Đảng chọn cho cách mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975
lại nằm vào tháng chẵn (tháng 4,
tháng 8 ) – tháng của sự chăm chỉ và thịnh vượng (theo quan niệm của phương
Đông). Ở phương Đông, số 4 (số thứ tự
của tháng – tháng 4) là con số của nền tảng vững vàng, làm việc chăm chỉ. Tương
tự như vậy, con số 8 (trong tháng 8/1945) là con số thịnh vượng, may mắn nhất
trong văn hóa phương Đông vì nó phát âm giống từ “giàu sang” (富丽) theo tiếng Trung Quốc. Như vậy, rất có thể Đảng chọn
tháng khởi nghĩa là tháng chẵn vì một số lý do: giúp quân ta tấn công địch ở
điều kiện khí hậu thuận lợi (chọn tháng 4 – trước mùa mưa ở miền Nam, vì nếu là
tháng 5 thì sẽ là mùa mưa, bất lợi cho hoạt động tác chiến du kích của ta; chọn
tháng 8 – có thể là do muốn bảo vệ sức khỏe và lực của quân dân ta trước mùa
đông; thể hiện mong muốn của Bác Hồ: xây dựng một chính quyền bền vững, đủ sức
vượt qua mọi khó khăn để đứng vững và phát triển).
Mặc dù vậy, việc chọn thời gian cho thời cơ ở cách
mạng tháng Tám 1945 và Đại thắng mùa xuân 1975 lại có nhiều khác biệt. Trong
cách mạng tháng Tám 1945, Đảng và Bác Hồ đã nhận thức được: thời cơ lúc này đã
xuất hiện khi kẻ thống trị Nhật bại trận và phải đầu hàng, còn lực lượng đế
quốc tiếp nhận sự đầu hàng, chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất hiện một khoảng
trống quyền lực mà Đảng ta đã lợi dụng một cách tài tình. Đảng ta đã lợi dụng
và kịp thời phát động quần chúng nhân dân khởi nghĩa khi đã chuẩn bị và tích
lũy đầy đủ lực lượng và đường lối cách mạng đúng đắn. Ta đã nỗ lực chuẩn bị lực
lượng hết mình, đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp theo từng thời điểm
cách mạng thì khi thời cơ đã đến, ta chỉ việc tung lực lượng đã chuẩn bị vào
cuộc cách mạng; có nỗ lực và lao động từ trước, giờ là gặt hái thành quả. Chọn thời gian cho thời cơ ở Đại thắng mùa
xuân 1975 được thực hiện do nỗ lực chủ quan của ta nhằm tạo ra những thay đổi cơ
bản có lợi cho ta trong cán cân so sánh giữa ta với Mỹ. Trong kháng Mỹ, chúng
ta không đập tan tiềm lực kinh tế - quân sự mà đập tan ý chí xâm lược của
chúng. Mặc dù Mỹ thay đổi, xoay đủ cách các chiến lược… nhằm mục tiêu biến Việt
Nam
thành thuộc địa kiểu mới theo tư tưởng “vũ khí luận”, nhưng chúng đã thất bại. Về
phía ta, Đảng ta điều chỉnh và thay đổi chiến lược liên tục cho phù hợp với
từng giai đoạn chiến tranh: kết hợp tài tình đấu tranh chính trị và vũ trang,
lập một hệ thống hậu phương vững chắc, gắn liền với hậu phương miền Bắc ruột
thịt và chọn “tiến công” là mục tiêu chủ yếu trong chiến lược cách mạng của
Đảng. Sau thời gian chiến tranh, ta đã chuẩn bị nhanh và thần tốc lực lượng (12
sư đoàn, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 3/1975), vật chất và kỹ thuật; kết hợp
sự nổi dậy của quần chúng để tiến hành Tổng tiến công mùa xuân 1975. Quãng thời
gian tồn tại của thời cơ cũng khác nhau. Thời gian cho thời cơ ở cách mạng
tháng Tám chỉ được đúng 20 ngày. Chỉ
20 ngày thôi. 20 ngày đó được tính từ khi Nhật
hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 13-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí
giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pôt-xđam (ngày 5-9). Nếu phát
động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 13-8 và sau
ngày 5-9 đều không có khả năng thành công, bởi trước ngày 13-8, quân Nhật còn
mạnh, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu, còn sau ngày 5-9, trên đất nước
có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng - Mỹ, từ vĩ tuyến 16 trở
vào là quân Anh và sau nó là quân Pháp trở lại xâm lược), cuộc cách mạng Việt
nam sẽ mất đi thế chủ động và sẽ gặp nhiều khó khăn khác. Vì vậy, chỉ có thể
giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó. Còn thời
gian cho thời cơ ở Đại thắng mùa xuân chỉ được tới 55 ngày (giống với thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ 1954
– 55 ngày). Sở dĩ thời gian dài như vậy vì Đảng ta đã cân nhắc, điều chỉnh
chiến lược cách mạng dựa trên sự nỗ lực cao nhất của ta về mọi mặt: chính trị,
quân sự, ngoại giao trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thời gian đó được
tính từ chiến dịch Tây Nguyên và kết thúc là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Nếu ta chọn sớm hơn hoặc trễ hơn thời gian đó (4/3 – 30/4) đều không có khả
năng thành công, vì tiềm lực kinh tế - quân sự mặc dù ta mạnh hơn địch, nhưng
trên thực tế (1975) thì không mạnh. Kinh tế miền Bắc dù có phát triển mạnh bằng
thời kỳ 1965, nhưng vẫn phải nhập khẩu lương thực rất nhiều. Quân đội Sài Gòn
có thể phục hồi trở lại do điều kiện kinh tế có sẵn và quân Mỹ vẫn còn mạnh, có
thể quay trở lại Việt Nam bất cứ lúc nào; quân Khmer Đỏ đang chuẩn bị các chiến
dịch quân sự chống phá ta và các thế lực khác (Indonesia, Trung Quốc…) có thể nhảy
vào Đông Dương để chia sẻ quyền lợi ở khu vực này ngay sau khi Mỹ rút đi. Số 5
được thấy khá nhiều trong Đại thắng mùa xuân 1975 (năm 1975, 55 ngày đêm, 1 giờ 55 phút (thời gian quân ta khai hỏa ở
Buôn Ma Thuột)) vì theo văn hóa phương Đông, số 5 là con số của sự mạnh mẽ, nhiều
năng lượng, sự hòa hợp, thích nghi, tự do và đa dạng. Đảng ta chọn số 5 chắc
chắn là có một sự điều chỉnh, sự tiếp nối về các chiến lược cách mạng Việt Nam từ trước
đó. Chọn “số 5” có thể là đã tiếp nối ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ
(diễn ra trong 55 ngày đêm), Đảng và Bộ Chính trị có thể đã nhận thức: số 5 là
số của sự mạnh mẽ, nhiều năng lượng (chiến lược cách mạng được quyết định nhanh
lẹ phù hợp với tình hình chiến trường; quân đội và nhân dân vững mạnh, đồng
lòng hợp sức cùng nhau đánh đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi đất nước). Số 5 cũng
là số của sự hòa hợp, tự do và đa dạng, nghĩa là: Đảng ta chọn số 5 là thể hiện
sự hòa hợp thành một đất nước thống nhất sau 21 năm bị chia cắt (1954- 1975),
lập chính quyền chung cho cả nước trong thời gian về sau (từ năm 1975 trở về
hiện nay), kinh tế và xã hội của nước ta sẽ phát triển theo hướng mở (kinh tế
định hướng XHCN – kinh tế nhiều thành phần, mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước một cách tự do trên cơ sở “hòa bình, hợp tác và phát triển”…. về sau này).
KẾT LUẬN
Tóm lại, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân năm 1975 đã thể hiện một cách đầy đủ sự chính xác, rõ ràng và sáng tạo
của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng trong việc tạo và chớp thời cơ trong cách
mạng Việt Nam. Việc xác định thời cơ trong Đại thắng mùa xuân 1975 là đã trải
qua một quá trình suy xét, cân nhắc kỹ về chiến lược cách mạng dựa trên tình
hình chiến trường ta và địch (qua các Hội nghị Bộ Chính trị năm 1974 – 1975).
Bộ Chính trị đã đúng khi chớp thời cơ cách mạng vào lúc kẻ thù đang suy yếu và
hoang mang cực độ; Mỹ bỏ rơi chính quyền Sài Gòn, thế và lực của ta đang lên
mạnh sau các thắng lợi về quân sự, chính trị và ngoại giao giữa ta với địch. Khác
với thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945, Bộ Chính trị đã sử dụng thời cơ dựa
trên những nỗ lực cao nhất của ta trên mọi mặt (cách mạng tháng Tám là ta đã
chuẩn bị sẵn lực lượng, đợi thời cơ là phát động cách mạng không tốn công sức
nào), nhờ đó ta đã phát động cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giành
thắng lợi trọn vẹn, góp phần đưa đất nước ta được thống nhất và xây dựng, phát
triển. Trong bài này, tác giả có đối chiếu với thời cơ của cách mạng tháng Tám
để tìm ra sự tương đồng và khác biệt, cũng như tìm ra điểm kế thừa và sáng tạo
của các cuộc cách mạng 1945, 1975 trên cơ sở bài học kinh nghiệm của cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại 1917. Từ đó, rút ra những nhiều bài học kinh nghiệm về
vấn đề nắm và chớp thời cơ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vững mạnh,
góp phần xây dựng nước ta trở thành một nước “sánh vai với các cường quốc năm
châu” (trích thư của Bác Hồ, 1945)
trên thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1. Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước – Những sự kiện lịch sử quân sự, Viện Lịch sử quân sự xuất bản, 1988.
2. Cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân mới của Đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Hà Nội, 1991
3. Alan Dawson, 55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ. Dịch giả:
Cao Minh. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1990
4. Paul Dreyfrus, Sài
Gòn sụp đổ (Lê Kim dịch), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004
5. Lê Duẩn, Thư
vào Nam, NXB Sự thật, 1985
6. Christopher E. Goscha, “Courting Diplomatic
Disaster? The Difficult Integration of Vietnam
into the Internationalist Communist Movement (1945–1950)”, Journal of Vietnamese Studies, Berkeley 11-2006
7. Lê Phụng Hoàng, Lịch
sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam
Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai
đến cuối chiến tranh lạnh (1945 – 1991), Tủ sách ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh,
2008.
8. Nguyễn Tiến Hưng, Jerrold Schecter, The Palace File, Nxb Harper và Row, New
York, 1986
9. Stanley Karnow, Vietnam A History, Pub.
Penguin Books, New York,
1997
10. G. Kolko, Giải
phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003.
11. Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb CTQG,
Hà Nội, 1995
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 5, 12.
13. Lênin
toàn tập, NXB
Mát-xcơ-va,1977, tập 41
14. Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập 2, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1991.
15. Mác-Ăngghen
toàn tập, NXB
Mát-xcơ-va,1977, tập 2.
16. Nhiều tác giả, Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước – những vấn đề khoa học và thực tiễn, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2005
17. Hoàng Phương, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
18. Hoàng Văn Thái, Những
năm tháng quyết định, Nxb Quân đội nhân dân, 1991, Hà Nội.
19. Viện Sử học, Việt
Nam những sự kiện lịch sử 1945 – 1975, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975
“Tiếp theo công điện
số 013/TT-CĐ. ngày 24-3-1975, sau đây là nghiêm lệnh của tôi:
Thứ nhất, tất cà
những tỉnh, những phần đất hiện còn đến ngày hôm nay 20-3-1975 phải được tử thủ
bảo vệ đến cùng. Mọi nơi phải nỗ lực tiêu diệt tối đa địch, chặn đứng đà
tiến quân của dịch, cùng cố phòng thủ, vận dụng mọi sáng kiến và phương tiện dể
phản công.
Thứ hai, các vị tư lệnh quân đoàn, quân khu chậu trách
nhiệm chỉ thị, hướng dẫn và kiểm soát mọi cấp chỉ huy đơn vị và chỉ huy lãnh
thổ thuộc quyền chấp hành tuyệt đối nghiêm lệnh này”.
Trích theo: Hoàng
Phương, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập
11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 288.