Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015

Những đóng góp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Đề tài: Những đóng góp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất, sử dụng nhiều binh lực nhất và hoạt động dài nhất trong kháng chiến chống Pháp của quân dân ta chống lại đạo quân viễn chinh hùng mạnh của Pháp. Để giành được thắng lợi trong trận Điện Biên Phủ, toàn Đảng và toàn quân dân phải phụ thuộc vào nhiều nhân tố, mà trong đó vấn đề hậu cần giữ vai trò quan trọng. Nhận thức vấn đề đó, Đảng ta coi trọng việc thực hiện “đại đoàn kết với nhân dân các dân tộc Tây Bắc; kêu gọi họ đóng góp vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã cùng nhau viện trợ lương thực – thực phẩm, vũ khí, sửa sang đường sá và đánh chặn cuộc quấy phá của Pháp, bọn phỉ... để bảo vệ hậu phương, góp phần thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Trong Hội thảo về chiến dịch Điện Biên Phủ ở trường Đại học Tây Bắc, tham luận của tác giả đề cập đến những đóng góp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc với chiến dịch Điện Biên Phủ - nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi của chiến dịch và thắng lợi chung của 9 năm kháng Pháp của nhân dân ta.
Đặt vấn đề:
Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất, sử dụng nhiều binh lực nhất và hoạt động dài nhất trong kháng chiến chống Pháp của quân dân ta chống lại đạo quân viễn chinh hùng mạnh của Pháp. Để giành được thắng lợi trong trận Điện Biên Phủ, toàn Đảng và toàn quân dân phải phụ thuộc vào nhiều nhân tố, mà trong đó vấn đề hậu cần giữ vai trò quan trọng. Nhận thức vấn đề đó, Đảng ta coi trọng việc thực hiện “đại đoàn kết với nhân dân các dân tộc Tây Bắc; kêu gọi họ đóng góp vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã cùng nhau viện trợ lương thực – thực phẩm, vũ khí, sửa sang đường sá và đánh chặn cuộc quấy phá của Pháp, bọn phỉ... để bảo vệ hậu phương, góp phần thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Trong Hội thảo về chiến dịch Điện Biên Phủ ở trường Đại học Tây Bắc, tham luận của tác giả đề cập đến những đóng góp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc với chiến dịch Điện Biên Phủ - nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi của chiến dịch và thắng lợi chung của 9 năm kháng Pháp của nhân dân ta.
1. Sự chuẩn bị của Đảng, Chính phủ cho các nhân dân các dân tộc Tây Bắc trước chiến dịch
            Tây Bắc là một nơi có địa thế rất hiểm trở, nhiều đồi núi và là nơi sinh sống của 30 dân tộc thiểu số Tây Bắc. Nhận thức điều đó, Đảng và Chính phủ đã thực hiện chính sách “đại đoàn kết dân tộc” kêu gọi họ chống lại chính sách “chia để trị” thâm độc của địch để quay về giúp đỡ quân dân ta. Khi chiến tranh đến hồi khốc liệt nhất, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho toàn Đảng, toàn dân ở Tây Bắc cùng đoàn kết với nhau, hợp sức với nhau để chi viện cho tiền tuyến với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Trong Đông Xuân 1953 – 1954, quân ta hoạt động trên khắp chiến trường Đông Dương nên việc huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến là việc làm cần thiết. Để thống nhất trong việc huy động lực lượng, ta đã thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch. Ở các liên khu, các địa phương thì ta thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do Chủ tịch Ủy ban hành chính làm Chủ tịch. Công tác chuẩn bị việc cung ứng lương thực – thực phẩm được ta phân thành 2 tuyến: tuyến hậu phương từ Ba Khe – Suối Rút do Tổng cục cung cấp và Hội đồng cung cấp đảm nhiệm; tuyền tiền phương (tiền tuyến) từ Ba Khe – Suối Rút lên tận Điện Biên Phủ do hậu cần chiến dịch đảm nhiệm. Đồng thời, Trung ương đã cử một số cán bộ xuống các vùng hậu cần đã được phân chia để kiểm tra và đôn đốc việc huy động nhân – vật lực phục vụ tiền tuyến, nhất là công tác vận động đồng bào dân tộc anh em Tây Bắc đóng góp vào chiến dịch. Tại Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã theo dõi kỹ càng vấn đề lương thực, đặc biệt là gạo và đạn. Hằng ngày, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp – chỉ huy trưởng chiến dịch đã trực tiếp nghe báo cáo về đạn và gạo; trong sổ của ông luôn ghi chép về tình hình cung ứng cho chiến dịch.
2. Những đóng góp của nhân dân các dân tộc Tây Bắc trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Được sự chỉ đạo và quan tâm của Đảng và Chính phủ, toàn dân mà đặc biệt là nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã huy động sức lực của mình, tích cực biến Tây Bắc thành hậu phương vững chắc chi viện cho tiền tuyến Điện Biên Phủ.
Thứ nhất, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã cung ứng sức người, sức của vào chiến trường. Ở Lai Châu thì trước và trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân các dân tộc của tỉnh tích cực đóng góp lương thực – thực phẩm, con người vào cuộc chiến. Ở Lai Châu, để hưởng ứng chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954 thì người H’mông ở Tả Sìn Thàng (huyện Mường Lay) đưa xuống tiếp tế cho bộ đội 13 tấn gạo, 80 con lợn, 29 con trâu và trên 1 tấn rau các loại ([1]). Nhờ sự viện trợ đó mà quân dân tỉnh đánh tan 24 đại đội địch, tịch thu vũ khí và giải tán luôn “Xứ Thái tự trị” của Đèo Văn Long, Lai Châu hoàn toàn giải phóng. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, tỉnh đã lập ngay Ban chuẩn bị chiến trường ([2]) của tỉnh và các huyện, chuẩn bị kế hoạch kháng chiến sắp tới. Sau đó, tại các Hội nghị ở tỉnh Lai Châu và hang Thẩm Púa (huyện Tuần Giáo), Ban cán sự Đảng của tỉnh đề ra các biện pháp viện trợ cho chiến dịch: tăng gia sản xuất, đóng thuế nông nghiệp và cho nhà nước vay lương phục vụ chiến dịch. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy, hàng vạn đồng bào các dân tộc ở các huyện Tuần Giáo, Thuận Châu, Phong Thổ... hăng hái đi dân công, tình nguyện đưa lương thực, vũ khí ra chiến trường. Để có đủ lương cho bộ đội, đồng bào người Thái, Tày đã phải giã gạo vào ban đêm, điều mà trước đây kiêng kỵ. Thậm chí, họ đem gia đình và tài sản và nhiều thanh niên dân tộc tình nguyện giúp bộ đội phá thác, làm thông đường giao thông để phục vụ về hậu cần cho chiến dịch. Trong một thống kê chưa đầy đủ, nhân dân đã cho Chính phủ vay 2.107 tấn gạo, 185 tấn thịt, 210 tấn rau, đóng góp 261.317 ngày công vào trận chiến Điện Biên Phủ ([3]). Đồng bào dân tộc ở các huyện trong tỉnh cùng góp nhiều lương thực vào cuộc chiến: Điện Biên (555 tấn gạo, 36 tấn thịt, 104 tấn rau), Quỳnh Nhai (144 tấn gạo, 21 tấn thịt, 1.608 dân công), Mường Tè (76 tấn gạo, 513 dân công), Sìn Hồ (15 tấn gạo, 2,6 tấn thịt, 3 tấn rau, 750 dân công)... ([4]).
Trong khi đó ở Yên Bái, một tỉnh sát nách Lai Châu – nơi diễn ra chiến dịch thì hoạt động của đồng bào Tày, H’mông, Dao... diễn ra mạnh mẽ. Nhiều thanh niên dân tộc tình nguyện ra trận, các phụ nữ từ bỏ các công việc thường ngày để lên đường đi tải đạn, tiếp lương cho bộ đội. Trong chiến dịch này, tỉnh huy động 31.652 lượt dân công phục vụ cuộc chiến. Trong số đó nổi lên nhiều tấm gương xuất sắc, tiêu biểu là anh Hà Văn Lô (người Tày, xã Đồng Khê huyện Văn Chấn) – một mình vận chuyển lương thực, vượt qua các trọng điểm ác liệt và đến nơi an toàn, được nhận Huy hiệu của Bác Hồ. Để có thể duy trì lương thực phục vụ cho bộ đội, đồng bào Thái (Mường Lò), Tày (Đại Lịch, Thượng Bằng La) trong tỉnh tăng gia sản xuất, đạt kết quả khả quan. Tính chung đầu năm 1954, Yên Bái cung cấp cho mặt trận 1.880 tấn gạo; 1.372 con trâu, bò; 489 con lợn thịt; hơn 2.700 kg đỗ, đậu, lạc ([5]). Trong khi đó thì ở Sơn La, chấp hành Chỉ thị của Đảng bộ về việc “sẵn sàng đóng góp nhân tài vật lực cao nhất cùng nhân dân cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc” ([6]), đồng bào dân tộc H’mông, Kh’mú ở Chiềng Noi (huyện Mai Sơn) cung ứng cho Chính phủ hơn 400 kg gạo. Đồng bào ở xã Chiềng Chung cũng đóng góp 2 tấn thóc. Trong thời gian chiến dịch diễn ra, dân công các huyện Mộc Châu, Yên Châu, Mường La… vận chuyển hàng ngàn kg lương ra chiến trường, cung ứng kịp thời cho bộ đội với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để bộ đội ăn no đánh thắng”([7]), giúp quân dân thêm động lực để đánh giặc. Tổng kết toàn tỉnh, đồng bào các dân tộc đã gửi ra Mặt trận Điện Biên Phủ 21.687 dân công với 2.434.759 ngày công cùng hơn 4.000 tấn gạo, 144.933 kg thịt, 139.730 rau xanh ([8]).
Thứ hai, sửa sang đường sá để chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là hoạt động thường kỳ của chính quyền nhằm bảo đảm giao thông thông suốt, chống địch càn quét và giúp nhân dân các tỉnh phục vụ tốt cho chiến dịch. Việc sửa sang đường bộ, đường sông diễn ra hầu hết các tỉnh ở Tây Bắc, mạnh nhất ở Yên Bái và Sơn La. Ở Yên Bái, thực hiện theo Chỉ thị của Công trường 13 do Tỉnh ủy thành lập, đồng bào các dân tộc phối hợp quân dân tỉnh tiến hành mở đường. Do rất quen thuộc với địa hình rừng núi hiểm trở, nhiều sông nhỏ chia cắt nên các thanh niên dân tộc đã mạnh dạn khảo sát, lập kế hoạch và huy động nhân công làm đường. Theo tài liệu ghi nhận, tỉnh đã huy động 124.458 lượt người làm đường; 173.197 công đào đắp, 1.638.000 công sửa chữa ([9]) để mở thành công các con đường: chợ Hiên (Tuyên Quang) đến Ba Khe; đường 13A từ Ba Khe nối với đường 41 đi Sơn La dài 188 km và từ Ba Khe đi Bản Tủ dài 70 km, đồng thời làm mới thêm 188 km đường ngang dọc trong tỉnh. Mặc dù bị địch ném bom tàn phá đường 13 A (huyết mạch giữa căn cứ Việt Bắc và Tây Bắc), bến phà Âu Lâu và đèo Lũng Lô… nhưng ta đã khắc phục mọi khó khăn và hoàn thành công việc rất tốt. Tính đến đầu 1954, Yên Bái huy động được 31.652 dân công với 1.650.000 ngày công, khai thác 45.000 m đá và lấy 31.300 m gỗ, tre, vầu để chống lầy, rải đá được 164.900 m đường phục vụ tốt chiến dịch.
Ở các tỉnh khác như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai thì hoạt động mở đường diễn ra tấp nập. Ở tỉnh Lai Châu thì ta chỉ mới đang sửa chữa đường Tuần Giáo – Lai Châu, Tuần Giáo – Điện Biên Phủ (dài tổng cộng 84 km); ở Sơn La thì đang gấp rút mở đường 13 nối phía tây tỉnh Yên Bái đến phía nam tỉnh Sơn La dài hơn 100 km, đường 41 từ cao nguyên Mộc Châu lên Tuần Giáo (Lai Châu). Tuy nhiên việc mở đường gặp nhiều khó khăn do địa hình Tây Bắc hiểm trở, phức tạp; cộng với việc luôn bị địch đánh phá ác liệt. Ở phà Tạ Khoa, ngã ba Cò Nòi (Sơn La) và các ngọn đèo Lũng Lô (Lai Châu), Pha Đin (Yên Bái), quân địch ngày đem thả bom, chông, tung biệt kích quấy phá liên tục không ngày nào được yên. Ở Pha Đin một ngày chúng ném 160 quả, ở Cò Nòi thì trong 1 ngày địch ném xuống đây hơn 69 tấn bom đạn các loại ([10]), có ngày khốc liệt hơn thì tới 300 quả ([11]) làm giao thông ở đây ách tắt nhiều ngày liền.
Khắc phục mọi khó khăn trước mắt, nhân dân các dân tộc các tỉnh Tây Bắc tích cực đưa pháo cao xạ 37 mm đánh máy bay địch, tiến hành cất giấu kho tàng, hàng hóa, xe cộ và mọi hoạt động đều diễn ra vào ban đêm. Hoạt động làm đường diễn ra liên tục ở Sơn La và Lai Châu. Quân dân Lai Châu đã mở rộng tuyến Tuần Giáo – Điện Biên cho Đại đoàn 351 chuyển pháo vào chiến dịch; gấp rút mở thêm đường vận tải ở huyện Sông Mã, đường chuyển lương Mường Lầm – Nà Sản để đưa lương thực vào phía nam Điện Biên Phủ. Ở Sơn La, ta sửa chữa thông suốt đường 13 với 41 nối Điện Biên Phủ với các hậu phương xa xôi về phía nam như Liên khu III, liên khu IV. Với đường sông, Lai Châu dùng bom phá hơn 100 thác nước, khai thông sông Nậm Na để dân công chuyển 1.700 tấn gạo của Trung Hoa viện trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Ở phía tây tỉnh, ta dùng luôn tuyến đường sông Mường Luân – Na Sang đưa 300 tấn gạo về phục vụ cho đơn vị bao vây Hồng Cúm. Quân dân các tỉnh làm đường rất khẩn trương cả ngày lẫn đêm, rà phá bom để thông suốt giao thông; làm thất bại âm mưu đánh phá giao thông của địch. Trong Đông Dương hấp hối, Navarre tỏ ra bất ngờ về khả năng sửa sang đường giao thông của ta: “Không quân ta được sử dụng triệt để nhằm ngăn chặn quân địch xây dựng và bảo dưỡng tuyến giao thông (…) nhưng vô hiệu quả. Sau khi máy bay phá hoại, những đoạn đường bị cắt đứt, lập tức được sửa san lại ngay. Những đoàn xe vận tải, xe thồ… chỉ đi vào ban đêm, ban ngày thì họ ngụy trang rất kỹ đến nỗi ta không nhận ra được”([12]). Jules Roy (Pháp) cũng thừa nhận: Đã có hàng trăm tấn bom được ném xuống các tuyến giao thông và những con đường tiếp vận của Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng chẳng bao giờ cắt đứt nổi những con đường ấy. Điều đó cho ta thấy được, khả năng làm đường giao thông bất ngờ, linh hoạt và bí mật cho việc vận chuyển lương thực thông suốt vào chiến dịch. Và cũng chính hệ thống giao thông chằng chịt, liên hoàn ở Việt Nam đã làm phá sản hoàn toàn sự chuẩn bị của Navarre (Pháp) ở Điện Biên Phủ.
Thứ ba, đồng bào có đóng góp lớn trong việc đưa các phương tiện vận tải, xe thô sơ, chủ yếu là xe thồ phục vụ chiến dịch. Sau khi sửa xong các con đường vận tải, nhiều nơi ở miền xuôi và hậu phương liên tiếp đưa các phương tiện vận tải vào chiến trường. Hầu hết các xe ô tô tải được vận động vào chiến trường, thậm chí có đoàn xe hoạt động liên tục từ chiến dịch Tây Bắc 1951 đến giờ. Những người lái các xe cơ giới thường là các tài xế lâu năm, hay các thanh niên dân tộc đi xe cơ giới trong vài tháng đã chạy quá 200 km. Vì là hoạt động cả ngày lẫn đêm nên họ đã phải uống cà phê đậm, trà đậm để đỡ buồn ngủ; một số bị bệnh trên đường đi.
Một phương tiện vận chuyển khác được coi là “bán cơ giới” cũng được huy động vào chiến dịch, đó là xe đạp thồ ([13]). Do thông thuộc địa hình và lại hiểu rõ về vùng đất nơi mình sinh ra và lớn lên, đồng bào các dân tộc như Thái, Tày, Việt đã cải tiến, gia cố xe đạp mà họ dùng thường ngày trở thành “xe đạp thồ” để vận chuyển nhanh chóng hàng tiếp tế ra mặt trận mà ít phương tiện nào sánh kịp. Trên địa hình hiểm trở, dốc trơn và nhiều đèo – ghềnh thác, họ vô tư phát cây mở đường rộng khoảng 1 m cho xe đi qua dễ dàng. Để tiện lợi hơn cho vận chuyển, nhiều thanh niên đồng bào nảy sáng kiến đưa thêm vài bộ phận mới như: tay ngai, tay phanh, khung phụ, gá buộc... vào xe để làm tăng thêm sức thồ của nó trên những con đường hiểm trở mà ô tô đành chịu. Khi chiến dịch nổ ra, nhiều địa phương biên chế thành từng đoàn theo địa phương (30 – 40 xe); mỗi đoàn lại chia nhỏ thành các đại đội, các nhóm nhỏ khoảng 5 – 6 xe để dễ qua đèo, lội suối. Dù gian khổ, nhưng họ vẫn thể hiện tính lạc quan qua những câu hò cho tinh thần sáng khoái:
“Ai sinh ra chiếc xe thồ
Trập trùng đèo dốc lần mò suốt đêm …
Hò dô này! Hò dô ta …này !
Nhờ việc làm đó mà tốc độ thồ của xe đạp tăng mạnh. Nhiều xe đã tăng tải trọng thồ hàng, từ 160 kg lên tới tối đa 325 kg hàng viện trợ cho chiến trường. Nhiều xe thồ của đồng bào đạt kỷ lục thồ hàng như thanh niên người dân tộc Ma Văn Thắng (Phú Thọ) đạt kỷ lục thồ 352 kg hàng, có lúc là 400 kg hàng viện trợ vào chiến trường ! Nhớ lại kỳ tích này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Mỗi xe thồ lúc đầu chở được 100 kg sau đó nâng lên 200 kg, 300 kg. Có một dân công ở Phú Thọ, anh Ma Văn Thắng chở được 352 kg. Năng suất xe thồ gấp 10 lần dân công gánh bộ. Gạo ăn dọc đường cho người chuyên chở cũng giảm đi 10 lần". J. Roy (Pháp) cũng nói: “Tướng Nava bị thua chính là những chiếc xe đạp thồ với những kiện hàng từ 200 đến 320 kg, được điều khiển bởi những con người ăn không thật no và ngủ thì nằm ngay trên những mảnh ni-lông trải trên đất". Điều đó cho thấy, đóng góp về phương tiện vận tải – nhất là xe đạp thồ của đồng bào các dân tộc là rất lớn, thể hiện sự cần cù, sáng tạo ưu việt của dân ta chống lại vũ khí hiện đại của địch.
Thứ tư, đồng bào dân tộc đã tình nguyện giúp bộ đội làm quân báo, đưa nhiều thông tin về cung cấp cho Bộ Chỉ huy chiến dịch để họ lập kế hoạch tác chiến. Trước khi chiến dịch bắt đầu, đồng bào các dân tộc sống rất cực khổ, bị bọn Pháp và cả tên chúa Thái Đèo Văn Long áp bức thậm tệ. Trước tình hình đó, nhiều trinh sát được cử đi luồn vào các làng bản đồng bào dân tộc, tận mắt thấy cảnh tan hoang của bản làng (bản Song Nhai bị tàn phá trắng, nhiều bản làng của người Thái, Tày, … bị tàn phá nặng nề) nên có kế hoạch tuyên truyền, cứu đói và bảo vệ tài sản của đồng bào. Có trường hợp cá biệt ở bản Hủi của người Thái ở núi Pú Hồng (phía đông Mường Thanh) bị dân bản xa lánh, tách biệt với bên ngoài. Các cán bộ dân lọt vào bản rồi sống với dân, giúp đỡ lương thực – thuốc men và tài sản rất vô tư, khiến nhiều người rất cảm động. Thậm chí, một số cán bộ hy sinh tài sản của mình như đồng hồ, vật dụng riêng của mình để đổi kim, chỉ và thuốc cho đồng bào; đưa thư vận động binh lính Thái quay trở về gia đình. Có cụ già nói:
- Bộ đội Cụ Hồ cái gì nó cũng giỏi, cái gì nó cũng biết làm. Bộ đội Cụ Hồ “chăn lai”, bộ đội Cụ Hồ “đi lai” ([14]).
Nhờ sự tin tưởng tuyệt đối như vậy, nên đồng bào các dân tộc ở Điện Biên luôn ủng hộ bộ đội, sẵn sàng làm tai mắt, cung cấp nhiều tin tức cho bộ đội và “địch vận” trong chiến dịch. Chưa có tài liệu nói về công tác thám báo của đồng bào các dân tộc, nhưng theo dõi chiến cuộc thì ta thấy rõ sự đóng góp của họ với chiến dịch. Họ cử người luồn sâu vào trận địa, nghe ngóng tình hình và thậm chí có người còn thu thập tài liệu quan trọng (bản đồ chiến trường, bưu ảnh) gửi về bộ đội. Khi công tác địch vận được triển khai, nhiều đồng bào viết tâm thư gửi lính Thái kêu họ trở về nhà. Nhờ thế khi quân ta tấn công cứ điểm Bản Kéo của Clarchambre (Pháp), binh lính Thái nghe theo lời tuyên truyền của bộ đội đã trở về gia đình an toàn, không tốn 1 viên đạn.
Thứ năm, đồng bào các dân tộc có công rất lớn trong việc chống quân phỉ, bảo vệ hậu phương Điện Biên và giải phóng hoàn toàn Tây Bắc. Ở các tỉnh biên giới phía tây bắc thì trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu, Pháp tập hợp lực lượng phỉ ở Quỳnh Nhai, Sìn Hồ, Mường Lay (Lai Châu); thị xã Sa Pa, huyện Phong Thổ, Bảo Thắng (Lào Cai), đồng thời tung biệt kích vào quấy phá hậu phương của ta. Đứng trước hoạt động ngày càng khốc liệt của bọn phỉ Tây Bắc, Ban cán sự Đảng bộ 2 tỉnh Lai Châu và Lào Cai huy động nhân dân và đồng bào các dân tộc đứng lên chống giặc phỉ. Ở Lai Châu, ta đánh tan tành cụm phỉ ở Mường Tè (gồm 57 tên, do tên Đào Gia Trụ cầm đầu), ở Sìn Hồ (12 tên bị diệt – trong đó có tên chỉ huy Vàng Tả, thu toàn bộ vũ khí). Tháng 5/1954, phát hiện bọn phỉ đang hoạt động ở Than Uyên và Mường Giơn, bộ đội ta đã tiến đánh chúng. Kết quả, bọn phỉ ở Than Uyên thất bại và phải chạy về phía huyện Sìn Hồ. Ngoài ra, quân dân phía bắc Lai Châu cũng bắt hàng hàng chục tên phỉ ở Mù Su, Mù Cả, Giàng Mân Pho, Mường Nhé, Mỏm Cao, đỉnh Cô san, Mường Toong... Tương tự như Lai Châu, ở Lào Cai bọn phỉ hoạt động mạnh ở thị xã Sa Pa (khu vực Séo Má Tỷ, Sín Chải, Lao Chải Sang, Nậm Ngấn, Nậm Can, Giàng Tả Chải, Má Cha), Phong Thổ và Bảo Thắng và nhiều nơi khác với tính chất hoạt động rất phức tạp (chiếm đất, lập ngụy quyền). Nghiêm trọng hơn, chúng mở “chiến dịch Nguyễn Đình Văn” [15]đánh chiếm 5/6 huyện của tỉnh, lôi kéo đồng bào dân tộc ở huyện Si Ma Cai lập ngụy quyền. Trước tình hình đó, quân ta đã tiến công lại ở các trận Bắc Hà, tuy nhiên cuộc tiến công trên bị phỉ đánh bại và chúng đã tiến chiếm lại hầu hết các huyện, vùng ở Lào Cai. Từ tháng 1 – 7/1954, lực lượng phỉ ở tỉnh đã tăng vọt lên tới 1.431 tên. Chúng điên cuồng khủng bố, tàn sát cán bộ của ta, gây cho ta nhiều tổn thất. Việc để mất Bắc Hà là do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là: ta chủ quan, không đánh giá đúng âm mưu – thủ đoạn của địch. Một số cán bộ tỏ ra chủ quan, thiếu tinh tưởng ở cơ sở và không biết dựa vào dân mà chủ yếu là đồng bào dân tộc để chống kẻ thù – kết quả là thất bại. Bọn phỉ Tây Bắc còn tiếp tục hoạt động, lôi kéo đồng bào các dân tộc trong thời kháng Mỹ giai đoạn đầu (1954 – 1960). Đến khi ta mở rộng ngoại giao với Trung Hoa, bạn đã giúp dẹp yên bọn phỉ - đảm bảo tiến độ viện trợ vào Nam sau này của ta.
Kết luận
Qua tham luận trên, tác giả đã trình bày khái quát về sự đóng góp của đồng bào dân tộc Tây Bắc với chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, chưa thấy một trận đánh nào huy động một lực lượng hậu cần lớn ở cả nước (chủ yếu là Tây Bắc) như chiến dịch Điện Biên Phủ. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, dù có khác nhau hay tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán nhưng hễ là người dân của đất nước Việt Nam thì phải đứng lên giữ lấy nước. Họ giữ nước bằng mọi cách, mà trong đó hậu cần là tiêu biểu nhất. Nhiều người không tiếc công việc riêng của mình, sẵn sàng từ bỏ để thực hiện nhiệm vụ thiên liêng với đất nước – viện trợ cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (viện trợ lương – vũ khí, sửa sang đường sá, đưa dân công và diệt bọn phỉ) bảo vệ chiến dịch diễn ra thắng lợi. Tuy có vài trở ngại nhưng hoạt động cung ứng hậu cần tại chỗ là rất cần thiết, làm đúng ý đồ của tướng Giáp: huy động hậu cần tại chỗ cho chiến dịch, không thể (ít) khi lấy hậu cần từ nơi cách xa 300 km như Navarre từng huênh hoang khi bắt đầu chiến dịch. Chính công việc dù nhỏ bé, nhưng hết sức to lớn đó làm nên thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ - buộc Pháp đầu hàng và ngồi vào bàn ký hiệp định Genève rút khỏi Đông Dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng bộ tỉnh Sơn La (1978), Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Sơn La.
2. Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Điện Biên Phủ dưới góc nhìn của nhà khoa học Việt – Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Lịch sử Đảng bộ các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái; Nxb CTQG, Hà Nội
4. Cao Văn Lượng (2003), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân khu Tây Bắc (1946 – 1954), Nxb KHXH, Hà Nội
5. Henry Navarre (2004), Đông Dương hấp hối, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
6. Nhiều tác giả (1980), Chiến thắng Điện Biên Phủ - ký sự, Nxb QĐND – Hà Nội
7. 30 năm phấn đấu và xây dựng Đảng bộ Lai Châu (1949 – 1979), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Lai Châu, 1980.
8. Jules Roy (2004), Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp, Nxb TPHCM.




[1] Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Lai Châu 1945 – 1954, tr. 150.
[2] Ban chuẩn bị chiến trường của tỉnh Lai Châu gồm 4 đ/c: Trần Quốc Mạnh (Ban cán sự Đảng tỉnh), Lê Tinh (bộ đội chủ lực E 148), Phạm Duy Tiến (tỉnh đội dân quân) và Lê Sinh (bộ đội Quân khu Tây Bắc). Trích trong Cao Văn Lượng (2003), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân khu Tây Bắc (1946 – 1954), Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 444.
[3] 30 năm phấn đấu và xây dựng Đảng bộ Lai Châu (1949 – 1979), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Lai Châu, 1980, tr. 59.
[4] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu, tập 1 (1945 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 217.
[5] Ban biên tập Lịch sử Yên Bái (2013), Yên Bái mở đường phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, tài liệu đánh máy, Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái.
[6] Chỉ thị của Tỉnh ủy Sơn La gửi các Ban huyện ủy năm 1954, tài liệu lưu trữ tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Sơn La.
[7] Đảng bộ tỉnh Sơn La (1978), Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Sơn La, tr. 128.
[8] Sơn La, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), sđd, tr. 171.
[9] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái, tập 1 (1930 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 147.
[10] Nhiều tác giả, Quân và dân Tây Bắc với chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb CTQG, tr. 141.
[11] Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Điện Biên Phủ dưới góc nhìn của nhà khoa học Việt – Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 132.
[12] Henry Navarre (2004), Đông Dương hấp hối, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 206.
[13] Điện Biên Phủ - ký sự, Nxb QĐND – Hà Nội, tr. 298 – 299.
[14] Tốt lắm ! Đẹp lắm ! (tiếng Thái). Theo Hoàng Minh Phương (2004), Điện Biên Phủ - những trang vàng lịch sử, Nxb Trẻ Tp.Hồ Chí Minh, tr. 95.
[15] Nguyễn Đình Văn là người Tày ở Chiềng Keng, Văn Bàn. Trước y là tri châu Văn Bàn, tay sai của Pháp. Theo Cao Văn Lượng (2003), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân khu Tây Bắc (1946 – 1954), Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 459.

Không có nhận xét nào: