HỒI GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
Thái Nguyễn Đức Minh Quân
1. Tổng quan về sự ra đời, phát triển của Hồi giáo
1.1.
Điều kiện tự
nhiên – xã hội và sự xuất hiện Hồi giáo
Hồi giáo tức đạo
Islam, mà người Việt Nam
quen với cách gọi được du nhập từ Trung Quốc sang là đạo của người Hồi Hột –
Hồi giáo. Hồi giáo ra đời gắn liền với tên tuổi của chiến binh, nhà thơ, đại
Tiên tri Muhammad nổi tiếng vào đầu thế kỷ VII. Hồi giáo ra đời do nhiều nguyên
nhân chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng gắn liền với lịch sử phát triển của
người Arab.
Về nguyên nhân chính trị thì trước khi Hồi
giáo ra đời, ở Arab cổ - trung đại đã tồn tại nhiều bộ lạc Arabs cổ cũng như
nhiều nhà nước khác nhau. Tuy vậy, những tổ chức chính trị sơ khai này (bộ lạc,
quốc gia; hai tổ chức tồn tại hầu như song song với nhau) xuất hiện rất manh
mún, riêng lẻ. Người thập phương muốn từ nơi này sang nơi khác phải đi hàng
chục cây số trên sa mạc nóng bỏng thì mới tới được. Chính vì tổ chức phân tán
như thế, nên các tổ chức này đã không đủ sức mạnh để chống lại thế lực bên
ngoài như La Mã, Ba Tư. Vào đầu thời trung đại, đã có thời gian vùng đất này bị
Ba Tư và Byzantium tranh giành ảnh hưởng ở nơi đây.
Về nguyên nhân kinh tế - xã hội: kinh tế
ở Arabs cổ - trung đại rất manh mún, gồm hai loại là kinh tế du mục ở phía bắc
và kinh tế nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng phía tây nam bán đảo Arap; trong
khi đó công cụ để làm việc rất thô sơ và lạc hậu; chăn nuôi thì là gia súc
nhưng lạc đà mới là vật nuôi chủ yếu. Về lĩnh vực kinh tế đối ngoại, người dân
đã tận dụng vị trí đặc biệt của Arab (nằm ở ngã ba đường, ngã ba châu lục) nên
họ lập các thành thị như Mecca và Hejaz (dân số khoảng gần 5 vạn người) nằm
ngay trên con đường buôn bán Đông – Tây để tiện buôn bán, giao lưu với bên
ngoài. Về xã hội thì thời kỳ này đã có sự phân chia giai cấp (nhưng không rõ
nét). Đứng đầu bộ lạc (hay vương quốc) là Sheikh với bộ lạc; quốc vương đối với
vương quốc. Mọi người cùng làm việc trên cơ sở bình đẳng; nhưng phụ nữ thời kỳ
đó bị đối xử thậm tệ - họ bị giết chết khi vừa sinh ra.
Về nguyên nhân tôn giáo: Mecca
Tóm lại, những tiền đề về
chính trị, kinh tế - xã hội và tôn giáo ở Arab đã là những nguyên nhân chính
thúc đẩy sự thống nhất của các bộ lạc trong bán đảo Arab dưới sự lãnh đạo của
một nhà nước, một tổ chức kinh tế - xã hội có sức mạnh; đồng thời thống nhất
các tôn giáo đa thần thành 1 tôn giáo độc thần để phát triển đất nước. Và Hồi
giáo – một tôn giáo mới thờ độc thần đã ra đời – đã đáp ứng được yêu cầu đó.
1.2.
Sự ra đời và
phát triển của Hồi giáo
Người sáng lập
ra Hồi giáo là Muhammad. Theo truyền thuyết người Hồi kể lại thì: Muhammad sinh
năm 571[1] tại
Mecca trong
một gia đình làm nghề buôn bán ở Mecca (Meka) bên bờ tây bán đảo Ảrập. Mồ côi
từ nhỏ, ông được ông nội và bác đem về nuôi dưỡng. Mặc dù không biết đọc, không
biết viết, nhưng ông rất thông minh, khôn ngoan và giàu nghị lực. Lớn lên, ông
lấy vợ là bà Khadija hơn ông tới 15 tuổi. Từ lúc lập gia đình rồi, ông chuyên
tâm lo vào việc buôn bán và đồng thời nghiên cứu về đời sống tâm linh. Lúc 40
tuổi, ông vào thiền trong hang núi Hira thì bất ngờ 1 đêm, ông thấy thiên thần
Jibrael (Gabriel) thừa lệnh Chúa Allah xuống “khải thị” cho ông, khiến ông trở
thành sứ giả của Thượng đế - Hồi giáo chính thức được khai sinh. Để hợp pháp
hóa tôn giáo mới này, ông tự xưng mình là Tiên tri – sứ giả cuối cùng trong số
28 sứ giả được thánh Allah cử đến để truyền bá lời dạy của Allah, giáo dục lối
sống cho người dân Arab; đồng thời ông cũng phán rằng kinh Koran là bộ kinh chính
thức của người Arab (chống lại và hủy bỏ 2 bộ kinh cũ của người Do Thái và
Thiên chúa giáo).
Vào năm 40
tuổi sau khi bắt đầu lĩnh giáo từ Chân Chủ Allah, Muhammad bắt đầu truyền đạo.
Lúc đầu, ông truyền đạo bí mật cho người thân trong nhà, bạn bè và họ hàng, về
sau thì lan ra bên ngoài và được đông đảo quần chúng đi theo. Về sau, do hoạt
động truyền giáo bị phe quý tộc lớn chống đối nên vào tháng 7/622, Muhammad đã
phải dẫn tín đồ của mình từ Mecca trốn về Yathrib (sau đổi là Medina); và sau
đó cũng tại nơi này, ông đã cho thành lập ummah (cộng đồng Hồi giáo) vững mạnh
ở nơi đây[2]. Sau một
thời gian chuẩn bị lực lượng, Muhammad tiến hành cuộc chiến tranh thần thánh:
Hồi giáo – tín ngưỡng bản địa, Hồi giáo – Do Thái giáo… Sau 8 năm trời đấu
tranh quyết liệt, Muhammad đã giành được thắng lợi và Hồi giáo chính thức được
xác lập trên vùng đất rộng lớn này. Nói về sự thắng lợi của ông, Bernard Lewis
viết: “Là sứ giả của Thượng đế, ông mang
đến và truyền bá cho nhân loại một tôn giáo mới vừa phát hiện. Đồng thời với tư
cách là người lãnh đạo của cộng đồng Hồi giáo ummah, ông xây dựng luật pháp,
chủ trì xét xử, thu thập thuế má, điều khiển ngoại giao, khởi động chiến tranh
và quyết định hòa bình. Ban đầu khối ummah chỉ là một cộng đồng, về sau trở
thành 1 quốc gia. Chẳng bao lâu, nó trở thành một đế quốc”[3].
Thật đúng như
lời tiên đoán của Lewis: Sau khi Muhammad mất ngày 8/6/632, những người kế vị
Muhammad tự xưng là Caliph (tiếng Ảrập: خليفة ), có nghĩa là
“người nối nghiệp” nhà Tiên tri, đã dựa vào cơ sở là thuyết “cộng đồng Ummah”
do Muhammad lập ra sau khi đã thành lập nhà nước Arab đầu tiên, bắt đầu quá
trình mở rộng lãnh thổ. Qua gần 1 thế kỷ, quốc gia của Muhammad đã trở thành 1
đế quốc có biên giới kéo dài từ Tây (Đại Tây Dương) sang Đông (Trung Quốc).
Nguyên tắc “đồng thuận” (ijma)[4] được áp dụng
cụ thể trong việc bầu chọn người lên làm quốc vương Hồi giáo (nguyên tắc này
không phân biệt huyết thống, cần người có tài – đức thì được làm vua). Các quốc
vương Hồi giáo đã thực hiện bình đẳng xã hội, kêu gọi người dân tham gia vào
tôn giáo mới để tiện phát triển đất nước và mở rộng lãnh thổ. Tuy nhiên, vì
nhiều lý do khác nhau nên Hồi giáo đã sớm tan rã ngay từ khi nó vừa được người
sáng lập ra nó – Muhammad – tạo dựng mầm mống trong cộng đồng người Hồi Arab.
Nhiều nhà nghiên cứu Hồi giáo cho rằng, nguyên nhân tan rã của Hồi giáo chủ yếu
do:
- Trước khi
qua đời, Muhammad không chọn người kế vị để lãnh đạo cộng đồng Ummah Hồi giáo.
- Khi
Muhammad thành lập đạo Hồi thì ông quy định kinh Koran là kinh chính thức của
người Hồi. Nhưng do kinh Koran quá mơ hồ nên người ta phải giải thích cho rõ:
họ dùng hai sách Sunna (khởi đầu là sách Hadith: ghi lại hành vi – lời nói của
Muhammad, về sau đúc kết lại thành sách Sunna) để giải thích. Chính vì kinh
Koran quá mơ hồ nên dẫn tới nhiều ý kiến khác nhau, để rồi cuối cùng bị phân
thành nhiều phái khác nhau và mỗi phái có ý kiến khác nhau về Hồi giáo.
- Hồi giáo
ngay từ khi ra đời mặc dù có lan truyền vào quần chúng, nhưng nó chỉ được số
đông người giàu có (vua, quan, thương nhân…) đi theo, người nghèo không thể
theo được – họ vẫn chấp nhận tín ngưỡng cũ. Mặc khác, Hồi giáo từ khi được lan
truyền thì nó bị các tôn giáo có mặt trước đó là Do Thái và Thiên Chúa giáo
(nhất là Do Thái giáo) chống đối kịch liệt. Ngoài ra cũng vào thời kỳ này, do
trình độ tổ chức tôn giáo còn hạn chế nên Muhammad chưa nghĩ ra được, chưa
thành lập được 1 tổ chức giáo hội Hồi giáo thống nhất, nên tan rã là điều hiển
nhiên.
Chính vì
những lý do trên mà Hồi giáo, ngay từ khi ra đời và phát triển chưa được ít lâu
thì tan rã dần thành 72 giáo phái khác nhau, trong đó phái Shiites và Sunni là
hai phái lớn chiếm số đông tín đồ nhất.
2. Một số nội dung cốt yếu của Hồi giáo
2.1. Giáo lý, giáo luật
Giáo lý của Hồi giáo thể hiện trong
kinh Koran. “Kinh Koran” (Qur’an, tiếng Ảrập: القرآن, nghĩa là “đọc”) là bộ kinh điển tối
thượng của người Hồi giáo. Theo giáo lý đạo Hồi, Koran là sự tiết lộ những lời
(kalam) của Thượng đế[5] thông qua Thiên sứ
Gabriel cho Muhammad. Tương truyền, trong 23 năm cuối đời mình, Muhammad đã đọc một vài
thiên khải cho các tín đồ của ông ghi chép rải rác trên các miếng da thú, tảng
đá, mảnh xương… Sau khi ông tạ thế, Caliph đầu tiên là Abu Bakr ra lệnh cho Zayd Ibn Thabit – người thư ký giỏi nhất của Tiên tri,
tìm kiếm những đoạn chép tay, những gì còn lại trong trí nhớ của các tín đồ thân
cận nhất của Muhammad, để tập hợp một cuốn kinh. Đến thời Uthman việc biên soạn
kinh Koran được thực hiện do công sức
của nhiều người [6].
Kinh Koran
chia thành 30 phần (Just), 114 chương (Suras), 6.236 câu (Ayat, nghĩa là “điều lành”, điều kỳ
diệu”) [7] và 323.015 từ. Các
chương mục, câu cú và ngôn từ trong kinh Koran đều bị sắp xếp không theo một
trật tự logic, không theo một khuôn khổ nhất định nào cả; nhưng thứ tự thì dài
(chương mục, câu từ) để trên, ngắn để dưới. Nội dung của kinh Koran thật phong
phú và đa dạng. Nó chứa đựng những tín ngưỡng cơ bản, chế độ tôn giáo[8]; những ghi chép về tình
hình chính trị, kinh tế - văn hóa ở bán đảo Arab đương thời cùng các nguyên tắc
tôn giáo, nghĩa vụ của tín đồ đối với đức thánh Allah[9]. Nói một cách vắn tắt,
nội dung giáo lý Hồi giáo trong kinh Koran nhấn mạnh các điểm sau:
- Thiên Chúa Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất, vũ trụ; là Thượng
đế Toàn quyền, Toàn uy, Toàn trí, Toàn thức (Ngài có tới 99 cái tên đẹp do tín
đồ phong tặng). Ngài sinh ra muôn loài và kể cả nhân loại
- Mọi con người đều bình đẳng trước Allah, nhưng số phận và tài năng sẽ
tạo ra sự khác biệt giữa họ với nhau trên đời.
- Số phận của con người là định mệnh – do Allah sắp đặt.
- Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng đắn với đạo: trong cộng đồng
Hồi giáo thì họ phải chịu ràng buộc bởi các quy định, phục tùng tuyệt đối
Allah. Đối với người ngoại đạo (như Do Thái, Thiên Chúa giáo) thì phải “thánh
chiến” (Jihad) để chống lại để bảo vệ lợi ích của Hồi giáo. Kinh Koran (chương
9, câu 5) viết rõ: “Khi những tháng Thánh
qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần; bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy
phục kích để bắt chúng”[10].
- Khuyên bảo mọi người nên giữ gìn sức khỏe.
- Những lời răn dạy về đạo lý:
+ Chỉ tôn thờ 1 Thiên chúa duy nhất là Allah
+ Vinh danh và kính trọng cha mẹ
+ Tôn trọng quyền của người khác
+ Bố thí rộng rãi cho người nghèo
+ Tránh giết người, ngoại trừ mấy trường hợp cần thiết
+ Cấm ngoại tình
+ Hãy bảo vệ và chu cấp cho trẻ em mồ côi
+ Hãy cư xử công bằng với mọi người
+ Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần
+ Hãy khiêm tốn
Hiện nay, kinh Koran không đơn thuần chỉ là bộ kinh của hơn 20 nước Ảrập
mà còn là tác phẩm đồ sộ, kết tinh tài hoa, trí tuệ và ước mơ của người Ảrập
cần cù và giàu nghị lực. Nói về bộ kinh này, đại thi hào Đức G.W.Goethe viết: “Kinh Coran là bộ sách đọc mãi không thấy
chán. Cứ mỗi lần đọc lại cảm thấy như nó luôn luôn mới mẻ, cuốn hút con người,
làm rung động lòng người, thúc giục con người… Do nội dung cũng như giáo lý đa
dạng, lời văn nghiêm túc, lúc đường hoàng, lúc trang trọng… Bộ kinh này sẽ mãi
mãi toát ra một sức mạnh vĩ đại”[11].
Giáo luật của Hồi giáo thể hiện
trong bộ luật “Shari’ah” – bộ luật kinh điển của người Hồi Arab. Shari’ah, tiếng Ảrập: شريعة , nguyên nghĩa là “con đường”, chỉ một hệ
thống các nghĩa vụ hoàn chỉnh thông qua sự khải thị của Allah về tôn giáo, đạo
đức, pháp luật cần phải tuân theo. Nó ra đời từ rất sớm, đồng thời với đạo Hồi.
Theo các tài liệu Ả rập cổ, ngay từ trước khi nhà nước
ra đời, người Ả rập đã tuân thủ một bộ luật pháp không thành văn do các thị
tộc, bộ tộc đưa ra để quản lý chung. Khi nhà nước ra đời, Muhammad dựa vào các
tập quán cổ xưa đó, san định và lập thành luật Shari’ah, lấy danh nghĩa thánh
Allah ban hành. Nội dung bộ luật đề cập đến 11 nội dung[12],
trong đó 3 nội dung quan trọng là thừa kế tài sản, hôn nhân gia đình và xét xử
người phạm tội. Ngoài ra, luật còn quy định 5 hành vi đạo đức của con người
như: (1) nghĩa vụ tuyệt đối; (2) tán thưởng; (3) cho phép làm; (4) khiển trách
và (5) nghiêm cấm, xem như là tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá đạo đức của tín
đồ. Mọi tín đồ Hồi giáo phải chấp hành nghiêm chỉnh 5 hành vi này, nếu không sẽ
bị trừng phạt nặng. Do nhiều lý do khác nhau, luật pháp Hồi giáo bị phân thành
nhiều phái khác nhau; trong đó lớn nhất là 4 phái: Hanéfi (do Hanifa sáng
lập), Maliki (do Malik sáng lập), Shafi’i-yah (do Shafi’i sáng lập) và
Hanabilah (do Hanbal sáng lập). Nội dung và ý kiến của các giáo phái này về
luật pháp rất khác nhau[13]. Sự ra đời
của bộ luật này có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống của người Ả rập. Một mặt, nó giúp họ tạo dựng một cấu
trúc xã hội hoàn chỉnh, ổn định đời sống nhân dân để hướng đến mục tiêu xây
dựng nhà nước Ả rập vững mạnh; mặc khác
do được tiếp thu từ bên ngoài, bộ luật được đánh giá cao về nội dung, phương
pháp thực hiện và có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với cuộc sống tôn giáo mà còn
đối với đời sống thường nhật của người Ả rập[14].
2.2. Lễ nghi; tín ngưỡng của Hồi giáo
Một tín đồ Hồi giáo cần phải thực hiện năm bổn phận quan trọng thường
được gọi là Năm trụ cột của đạo Hồi.
Đó là Shahadah, Salat, Zakat, Sawn và Hajj.
Shahadah – xác nhận đức tin: Các tín đồ Hồi giáo khi cầu nguyện
đều phải biểu lộ đức tin của mình là Allah là vị thánh duy nhất, thánh toàn
năng và có thể nhìn thấy vạn vật trên thế gian. Họ tin vào Allah, tin vào vị
giáo chủ duy nhất là Muhammad, tin vào lời phán quyết cuối cùng và sự phục sinh
của con người trước Đức Allah toàn năng. Sự biểu lộ này phải thông qua lời cầu
nguyện được đọc bằng tiếng Arab của tín đồ trong nhà thờ (masjid), trước mặt
nhân chứng để bày tỏ sự trung thành.
Mecca
Zakat là bố thí cho người nghèo. Hồi giáo quy định, tín đồ sẽ trích một
phần thu nhập của mình (khoảng 2,5% thu hoạch hằng năm; 10% lợi tức mùa màng)
để bố thí cho người nghèo – có người xem là thứ thuế của đạo Hồi.
Sawn là nhịn ăn trong tháng chay Ramadan (tháng 9 theo lịch Hồi). Hồi
giáo quy định, tất cả các tín đồ nam – nữ, trừ người ốm và phụ nữ có thai, đều
phải nhịn ăn từ lúc rạng sáng cho tới lúc mặt trời lặn mỗi ngày trong tháng
này. Tối đến, họ sẽ ăn lại bình thường. Nghi thức này có ý nghĩa sâu sắc: đó là
dịp để thử thách lòng tin của tín đồ với tôn giáo – khuyến khích sống mộ đạo;
cảm nhận mùi vị đói khát để đồng cảm với người nghèo khổ.
Mecca[15]. Những người Hồi giáo đi
Mecca và trở về thành công mỹ mãn thì được tôn xưng là Hajji vào tên tuổi của mình nếu là đàn ông, còn đàn bà được gọi là Hajjiah, (những tên gọi này có nghĩa là
người đã hoàn thành bổn phận Hajji),
họ sẽ được người ta chào đón với những nghi lễ long trọng và được tôn kính đặc
biệt.
Ngoài “năm cốt đạo” trên, một quy định đáng chú ý là người Hồi có bổn
phận phải tham dự các cuộc “thánh chiến” (Jihad) để bành trướng thế lực và
truyền bá tôn giáo.
Về niềm tin (tín ngưỡng), người Hồi tín vào Allah, Muhammad, Thiên kinh,
Thiên sứ và Tận thế:
- Tin vào đức Allah: Nội dung này bao trùm lên các tín điều căn bản. Hồi
giáo cho rằng Alalh là vị thần duy nhất trong vũ trụ, tự sinh ra và vĩnh cửu.
Allah sáng tạo ra thế giới, là chúa tể của vũ trụ và muôn loài. Tín đồ không
thờ ảnh tượng Allah vì cho rằng Allah có mặt ở bất cứ đâu và ở khắp nơi, không
một hình tượng nào thể hiện đúng với Allah.
- Tin vào sứ giả Muhammad: Kinh Koran quan niệm đức Allah từng cử rất
nhiều sứ giả (28 vị) đến các dân tộc
khác nhằm truyền đạt lời dạy của Allah cho con người. Trong số các sứ giả mà
Allah chọn lựa, Muhammad là vị sứ giả cuối cùng Ngài tin cậy nhất, và là người
xuất sắc nhất và thành công nhất. Chỉ riêng Muhammad là sứ giả được nhận những
lời giáo huấn đầy đủ nhất của đức Allah.
- Tin Thiên kinh: Allah từng trao cho các sứ giả trước Muhammad mỗi
người 1 bộ; nhưng các bộ ấy không đầy đủ, bị thất lạc hay bị giải thích sai
lệch. Bộ Thiên kinh Koran của sứ giả Muhammad là bộ cuối cùng, là bộ duy nhất
đã đúc kết đầy đủ lời dạy của Allah nên Koran được xem là bộ kinh đầy đủ nhất,
toàn vẹn nhất.
- Tin vào thiên sứ: Thiên sứ do Allah tạo ra thực chất là các linh hồn,
vô hình trước con người và không có tính thần; mỗi thiên sứ có 1 nhiệm vụ riêng
và không ai phải quỳ lạy trước Thiên sứ. Thiên sứ có sự phân chia cấp bậc rõ
ràng, cao nhất là thiên sứ Jibrael (Gabriel).
- Tin vào tận thế: Hồi giáo tin rằng có Tận thế - phán đoán một ngày nào
đó, Tận thế sẽ đến. Trong ngày này, mọi hoạt động của sinh linh sẽ chấm dứt để
rồi tất cả đã sống lại để nhận sự phán xét của Allah. Tùy thuộc vào hành vi con
người mà Allah quy định: người tốt thì lên thiên đàng, người xấu sẽ bị đày đọa
ở địa ngục.
- Tin số mệnh con người: Hồi giáo cho rằng, mọi việc trên
đời đều do Allah an bài. Allah là kẻ sáng tạo ra vạn vật (trong đó có con
người) và biết hết tất cả mọi hành động của con người làm ở trên trần thế, Ngài
cũng không muốn con người bị cuốn vào vòng tội lỗi để rồi chịu hình phạt ghê
gớm. Do đó, con người cần phải làm chủ cuộc đời của mình, ăn ở sao cho tốt thì
được Allah cho lên thiên đường, bằng không sẽ bị đày đọa xuống địa ngục.
2.3. Tổ chức của Hồi giáo
Tổ chức Hồi giáo
trên thế giới gồm có hệ thống các chức sắc tôn giáo, các nơi sinh hoạt tập thể
của Hồi giáo. Về hệ thống chức sắc Hồi giáo thì từ khi thành lập đến nay, nó
không được thống nhất và luôn bị thay đổi tùy theo các giáo phái Hồi giáo:
- Giáo chủ (còn
gọi là Giáo trưởng) (tiếng Hồi: Califa, Emir) là người đứng đầu một quốc gia
Hồi giáo (Califate, Emirates)
- Ommal là người đứng đầu Hồi giáo
ở tỉnh
- Hakim (giáo cả) là người cai quản
thánh đường
- Naib Hakim (phó giáo cả), người
phụ tá cho giáo cả
- Ahly, người đứng đầu thôn ấp Hồi
giáo
- Imam, người
hướng dẫn hành lễ, thực hiện nghi lễ cho tín đồ ở thánh đường
- Hadji (hay gọi
khác là Hijjah): người tín đồ đã qua hành hương ở thánh địa[16]
Ngoài ra Hồi
giáo còn có một số chức sắc khác như Khatib, Tuan, Bilat, Slak, Cadis (lo về tư
pháp của chính phủ Hồi giáo); Cheik (làm nhiệm vụ truyền giáo).
Nơi sinh hoạt
của tín đồ Hồi giáo là một điểm đặc trưng của người Hồi. Nếu tín đồ đạo Phật có
nơi sinh hoạt là chùa chiền, đền đài; tín đồ đạo Thiên chúa có nơi sinh hoạt là
Thánh đường Thiên chúa thì đạo Hồi cũng có cơ sở tôn giáo của mình, đó là nhà
thờ (Masjid). Ở các quốc gia Hồi giáo, nhà thờ có hai loại: lớn gọi là giáo đường và nhỏ gọi là nhà nguyện. Mặc dù có nhiều điểm giống
với thánh đường Thiên chúa về tên gọi, nhưng cấu trúc – cách bày trí trong
thánh đường Hồi giáo rất khác Thiên Chúa giáo. Ở các nước Ả rập Hồi giáo, các
thánh đường bao giờ cũng được xây dựng công phu và trang hoàng thật đẹp vì theo
quan niệm của người Hồi, nhà cửa để ở cho một kiếp người thì xây như thế nào
cũng được, nhưng nhà cửa của thánh Allah thì phải trang hoàng cho thật đẹp.
Trước thánh đường sẽ có một sân vuông có hồ nước, nơi tín đồ được tẩy uế trước
khi cầu nguyện. Ở góc sân hướng về Mecca
là thánh đường. Nó được xây theo kiểu hình vuông có mái tròn. Phía trong thánh
đường có khám thờ, giảng đường, giá đặt kinh Koran. Trong thời kỳ đầu, thánh
đường được trang trí bằng hình kỷ hà, hình hoa lá. Về sau, khi lệnh cấm được
nới lỏng, họ chuyển sang trang trí bắng hình chim, thú, động vật tưởng tượng
nửa chim nửa thú[17]. Mỗi
khi sắp đến giờ cầu nguyện, Imam leo lên tháp nhà thờ để kêu gọi tín đồ. Ông
đọc liên tục 3 lần câu: “Tôi nhận rằng ngoài Allah không có chúa nào khác”;
“Tôi nhận rằng Muhammad là sứ giả của Allah”. Các tín đồ khi nghe câu nói đó
phải lập tức ngừng công việc để cầu nguyện. Trước khi cầu nguyện thì phải rửa
chân tay thật sạch; khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mecca , phủ phục chạm đất[18]. Sự
ra đời của thánh đường đã đáp ứng yêu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân,
nhất là những người theo Hồi giáo. Người ta có thể vào bên trong thánh đường,
dưới mái vòm hoặc bể nước để trò chuyện, hội họp. Trẻ em thì đến đây học tập
nếu nơi ở của chúng không có trường học.
Kiến trúc theo kiểu quần thể gắn liền liên kết chặc chẽ với nhau cho
thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa Hồi giáo với đời sống chính trị, văn hóa và xã
hội. Người Hồi nào cũng muốn sống quy tụ ở những nơi có thánh đường. Luật Hồi
giáo quy định, các tín đồ phải đến cầu nguyện vào trưa thứ sáu hàng tuần ở Đại
thánh đường. Như vậy, văn hóa của người Hồi nói chung chiu ảnh hưởng từ tôn
giáo của họ.
3: Ảnh hưởng của Hồi giáo đến cư dân Arab
3.1. Chính trị
Về chính trị,
quốc gia Hồi giáo được tổ chức theo cơ cấu chính trị kết hợp vương quyền - thần
quyền theo kiểu tổ chức nhà nước ở quốc gia phong kiến phương Đông. Theo đó,
vào thuở bắt đầu lập nước thì người đứng đầu quốc gia lúc đó là Đại Tiên tri
Muhammad (Prophet Muhammad) và các Giáo chủ (Calipha), những người được Thánh
Allah ủy nhiệm làm người đứng đầu quốc gia mới thành lập. Theo như sự sắp đặt
của Allah, Giáo chủ vừa là người nắm vương quyền (tập trung mọi quyền lực trong
tay – là người chủ tối cao), nắm thần quyền (do là Đại tiên tri nên ông sẽ là
người trung gian thực hiện cuộc tiếp xúc Người – Allah) nên nắm thần quyền là
điều đương nhiên. Ông chính là hiện thân của Allah, thay Allah cai quản trăm họ.
Chính vì có thực
quyền to lớn như thế nên các Giáo chủ nắm đồng thời 3 quyền: lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Về quyền hành pháp,
quyền này do Giáo chủ nắm giữ. Bất kỳ người Hồi nào cũng được làm Giáo chủ. Ban
đầu, phương pháp bầu chọn Giáo chủ chủ yếu theo nguyên tắc đồng thuận (ijma) –
một nguyên tắc rất dân chủ trong Cộng đồng Hồi giáo. Về sau, do sự kiện Giáo
chủ Ali qua đời năm 661 thì tổng đốc Syria là Muawiya làm đảo chính và cướp
chính quyền về tay mình. Sau khi lên nắm quyền, ông bãi bỏ chế độ bầu cử mà
thay vào đó là chế độ cha truyền con nối, kéo dài cho tới hiện nay vẫn còn
(tiêu biểu là vương quốc Qatar ,
vương quốc Arab Saudi… còn chế độ cha truyền con nối). Và, cũng giống như Hoàng
đế ở phương Đông, các Giáo chủ Hồi giáo (Califa) vừa nắm vương quyền trong nước
đồng thời cũng nắm luôn thần quyền ở ngoài đời. Bắt đầu từ thời Giáo chủ Omar
I, các quốc vương (hay Giáo chủ cũng đúng) òn mang thêm danh hiệu “Thống lãnh các tín đồ” (amir al muminin). Chính
bởi nắm nhiều quyền lực tuyệt đối như thế, các Giáo chủ sinh lòng muốn lạm dụng
quyền lực này. Bộ máy chánh quyền giúp giáo-chủ được đặt dưới sự lãnh đạo của
một Vizir (vizir có nghĩa là người phụ tá mang gánh nặng – chỉ Tể tướng) và gồm
nhiều bộ trưởng. Tại các địa phương giáo chủ uỷ quyền chỉ huy quân sự và dân sự
cho các tiểu vương (amir hay
emir có nghĩa là thống lãnh). Dân chúng chỉ tiếp xúc với chính quyền chủ yếu
qua trung gian các cán bộ thu thuế.
Về quyền lập pháp, các Giáo chủ không tự
định ra luật pháp mà lấy kinh Koran làm bộ luật để cai trị quốc gia. Tuy nhiên
trong chi tiết, khi có vấn đề nào đó được đặt ra các nhà thần học (ulama) bắt đầu nghiên cứu để đi đến một
kết luận mà theo họ là theo đúng tinh thần Kinh Koran. Các kết luận này sau
được đưa vào bộ luật Hồi giáo gọi là Shari’ah (nghĩa là con đường phải theo). Về sau, do Hồi giáo chia thành nhiều phái nên
cách sử dụng luật pháp Hồi giáo ở mỗi phái cũng khác nhau rõ rệt.
Về quyền
tư pháp, các Giáo chủ nắm tòa án, và bổ nhiệm những viên quan tòa tài ba
vào bộ máy tư pháp (chuyên xét xử) – những người này gọi là chánh án, xét xử ở cấp trung ương. Ở cấp
địa phương có quan tòa cấp dưới; ngoài quan tòa ra còn có các phụ tá (muhtabib)
để theo dõi các vấn đề liên quan đến thương mãi như nghiên cứu các hợp đồng mua
bán, kiểm tra chất lượng hàng hoá, kiểm tra việc cân đo, giữ gìn trật tự trong
các chợ và dàn xếp các tranh chấp giữa chủ và thợ. Vì luật Hồi giáo không có
văn bản thống nhất và chính thức nên các vị quan tòa này khi xét xử chỉ dựa vào
các quyết định (fatwa) mà các cố vấn pháp luật (mufti) đã đưa ra mà thôi. Luật
pháp Hồi giáo khắc nghiệt hơn nhiều so với luật Do Thái và luật Thiên chúa: tội
giết người và bỏ đạo sẽ bị tử hình; tội trộm cắp bị chặt tay và đánh bằng roi;
các tội nhẹ thường bị xử bằng cách khiển trách mà thôi[19].
3.2. Kinh tế
Về mặt kinh tế,
do chịu ảnh hưởng của Hồi giáo nên người Arab chủ trương cấm cho vay nặng lãi
nhưng cho phép người ta làm giàu vì
của cải làm ăn uy tín của con người. Kinh Koran có rất nhiều qui định về thương
nghiệp, điều này dễ hiểu vì Muhammad xuất thân từ nghề buôn bán; các tín đồ đến
với Hồi giáo sớm nhất đều xuất thân từ thương gia. Đạo Hồi chú trọng khai mỏ
(mỏ tài nguyên đều là tài sản của Thượng đế Allah), cho phép chủ mỏ chiêu mộ
nhân công và hưởng chế độ khoán sản phẩm, được đóng vào ngân sách chính phủ 1/5
sản lượng thu hoạch hằng năm. Các ngành tiểu thủ công nghiệp thường có người
đứng đầu (nhưng tiếng nói của họ yếu ớt so với thương gia).
3.3. Xã hội
Khi xây dựng Hồi
giáo, Muhammad muốn làm một cuộc cách mạng xã hội với những tư tưởng rất tiến
bộ thời bấy giờ. Ông chủ trương muốn xây dựng một xã hội bình đẳng giữa những
người dân theo đạo với nhau (bình đẳng nam – nữ về quyền lợi, nghĩa vụ… và
những cái khác trong cuộc sống). Tổ chức xã hội Arab được tuân thủ theo kinh
Koran.
Về tổ chức gia
đình, kinh Koran rất nhấn mạnh chế độ gia trưởng của người Arab Hồi giáo theo
đúng tục lệ cổ truyển của người Arab (mang đậm tính phương Đông cao). Theo đó
thì trong gia đình, đàn ông sẽ nắm quyền thống trị - cai quản gia đình và phân
chia các thành viên thành các thứ bậc và phân định công việc rõ ràng cho từng
người. Anh ta chỉ có nghĩa vụ là phải làm việc kiếm tiền nuôi sống gia đình,
chứ không hề can dự vào các công việc nội bộ của gia đình, và những công việc
trong gia đình thì anh ta thường giao cho vợ hay em gái, con gái, cháu gái xử
lý. Người già trong gia đình thì vẫn được kính trọng và được chăm sóc chu đáo. Về
vấn đề con cái trong gia đình, lúc đầu người Hồi trọng con nuôi nhưng về sau
lại trọng con đẻ vì chỉ có con đẻ mới có nhiều quyền lợi. Lúc sinh ra, tên con
thường được gắn với họ của bố bằng các chữ Ibn, Ben, Bin. Con trai chỉ sống với
mẹ đến 7 tuổi thì theo cha đi học nghề hay vào trường học miễn phí. Ngay từ lúc
còn bé, trẻ con đã được người lớn dạy phải tuyệt đối vâng lời người lớn, và
ngay cả khi chúng đã trưởng thành và có gia đình con cái riêng thì cũng vậy.
Kinh Koran nói: “Đấng Cứu nạn của ngươi
tuyên bố rằng ngươi thờ phụng không ai khác ngoài Ngài, và rằng ngươi phải tử
tế với cha mẹ. Dù có ai trong cha mẹ ngươi sống được đến già cùng ngươi hay
không thì ngươi cũng đừng nói điều gì xúc phạm hay làm họ tức giận, mà hãy nói
với họ bằng những lời tôn kính. Và vì lòng nhân từ, hãy cúi mình trước họ mà
nói: Allah trên trời! Hãy ban cho họ sự Nhân từ của người, như họ đã chăm sóc
âu yếm với con khi con còn bé”[20].
Vị trí của người
phụ nữ trong xã hội Hồi giáo Arab rất thấp kém – họ chỉ được coi là “cô dâu của
gia đình” và là “công cụ” để sinh đẻ con cái để nối tiếp cho dòng họ của người
đàn ông mà họ yêu thương. Kinh Koran phân định rõ địa vị giữa đàn ông và đàn bà:
“"Đàn ông có quyền đối với đàn bà vì
Chúa đã sinh ra đàn ông cao quí hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của
mình ra để nuôi họ. Đàn bà tốt phải biết vâng lời đàn ông vì đàn ông săn sóc cả
phần tinh thần của đàn bà. Đối với những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có
quyền ruồng bỏ, không cho nằm chung giường và có quyền đánh đập”[21]. Trong gia đình, người
vợ phải là người mẫu mực, biết vâng lời và làm những việc mà gia đình chồng cho
phép. Ngoài ra, họ còn phải giữ gìn danh dự
cho nhà chồng. Người vơ phải đoan trang, thùy mị và nếu có các biểu hiện thiếu
đúng đắn, họ sẽ bị trừng phạt ngay lập tức. Khi ra đường, họ sẽ phải che mặt
lại. Về lý do che mặt, có tác giả cho rằng, ngày xưa đàn ông cũng dùng khăn đó
để che mặt chống cát sa mạc. Nhưng sau đó, phụ nữ là sinh linh do chồng che
chở, và khăn che (chadra) chính là dấu hiệu bảo vệ cô ta[22].
Cô phải ở nhà chăm sóc, vun vét nhà chồng. Người Hồi không chấp nhận phụ nữ ra
ngoài một mình, trừ khi cô có người thân (thường là đàn ông) đi kèm[23] .
Khi có con, đặc biệt là con trai thì địa vị của họ được củng cố vững chắc hơn.
Họ sẽ được thừa kế tài sản của nhà chồng, thường là 1/3 số tài sản đó, còn lại
2/3 thì sẽ chia cho các anh em bên nhà chồng. Cũng như vậy trong vấn đề ly dị,
người đàn ông ly dị vợ rất dễ dàng, anh ta chỉ cần nói ba lần câu “Tôi bỏ bà” (al-Talaq)
trước mặt một người làm chứng là xong, còn người phụ nữ chỉ có thể ly dị nếu
chồng cô ta đồng ý. Trước tòa án, người phụ nữ được quyền bào chữa, nhưng theo
luật Hồi giáo, nhưng lời bào chữa của một người đàn ông có giá trị bằng hai
người phụ nữ, như thế muốn chống lại một nhân chứng là đàn ông thì phải có ít
nhất hai nhân chứng là phụ nữ. Một người đàn ông giết vợ, chị em gái hay thậm
chí cả mẹ mình có thể không bị kết tội nếu anh ta chứng minh được rằng người
phụ nữ đó phạm tội ngoại tình.
Về hôn nhân gia
đình, Hồi giáo cho phép đa thê. Về nguồn gốc thì theo Mansfield thì: “Trong các cuộc chiến tranh, đàn ông ra trận chết nhiều quá, để lại
nhiều bà vợ góa và trẻ con mồ côi và cuộc sống của họ về sau sẽ khó khăn. Trong
hoàn cảnh như vậy, việc đa thê là điều cần thiết để duy trì sự sống còn, hôn
nhân được coi là nhiệm vụ quan trọng của tín đồ”[24].
Theo luật, đàn ông Hồi giáo được phép lấy bốn vợ miễn là anh ta có đủ tài sản,
tài chính để lo bốn bà. Anh ta cũng có thể lấy nhiều hơn 4 bà để chứng tỏ mình
là người chân chính. Trong lịch sử đã từng có vua chúa, thương nhân lấy nhiều
vợ[25].
Về thủ tục hôn nhân Hồi giáo thì theo luật, đàn ông và phụ nữ bị cách ly nhau
bởi tục purdah[26] . Sau khi cưới, phụ nữ phải làm việc quần
quật và chịu sự giám sát của mẹ chồng cho đến cuối đời. Hiện nay, chế độ hôn
nhân đa thê bị phản đối kịch liệt. Báo chí Saudi Arabia cho biết hơn một nửa
đám cưới hàng năm đã tan vỡ. Nhiều phụ nữ ly thân đã phải sống cô độc một mình
trong nhà, chịu sự cấm đoán nghiệt ngã của gia đình mình. Trong khi các bậc cha
mẹ có tư tưởng tiến bộ trong việc đối xử với con gái, họ cho phép con chỉ lấy 1
người chồng thay vì gả con cho đàn ông nhiều vợ như trước đây. Nhận thức điều
đó, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ (1930) và Tunisia (1956) ra quyết định bãi bỏ
chế độ này. Ở các nước Hồi giáo khác, nhiều nhà hoạt động nữ quyền cũng phản
đối chế độ đa thê.
3.4. Văn hóa
Về văn hóa vật
chất, ảnh hưởng của Hồi giáo đến lĩnh vực này thể hiện trong ăn – uống; mặc và
ở; sự sáng tạo của họ trong khoa học – kỹ thuật.
Về ăn – uống của người Hồi, theo kinh
Koran thì họ sẽ ăn – uống những gì mà kinh cho phép (haram) và không ăn những
gì mà kinh không cho phép (halal). Kinh Koran quy định:
“Tất cả thức ăn thức uống từ động vật,
thực vật hay khoáng vật nếu Tohir
(sạch và tốt lành) thì được halal
ngoại trừ những gì độc hại đến sức khỏe và tính mạng”. Những đồ ăn, đồ uống
không sạch sẽ thì bị kinh Koran cấm đoán, buộc tín đồ không được dùng (không
dùng vì đồ ăn, đồ uống đó là ô uế, bẩn thỉu, không sạch) như: thịt súc vật chết, máu, thịt heo, huyết…. Về cách ăn mặc, Hồi giáo cho rằng trang
phục hàng ngày của họ chỉ mang tính biểu tượng, thể hiện mối quan
hệ giữa con người với đất đai, với quá khứ và Hồi giáo. Theo đó thì, mỗi người
dân Hồi giáo khi đi đâu, ở đâu thì họ đều mặc một áo dài trắng trùm kín đầu (cả
nam và nữ) màu trắng; việc mặc áo trùm kín đầu ấy là phản ánh sự thiết thực của
cuộc sống sa mạc và sự nhấn mạnh của đạo Hồi. Đi kèm theo áo dài trắng đó là một
mảnh vải vuông phủ trên đầu và có 2 loại: shimagh và ghutra[27].
Về phụ nữ, họ phải mặc một áo choàng phủ kín người được trang trí bằng các đồng
xu, mảnh kim loại hay đồng tiền vàng và nhất thiết phải dùng khăn che mặt. Về nơi ở và đi lại, người Hồi sinh sống
chủ yếu trong những ngôi làng nhỏ nằm rải rác quanh thành phố; các ngôi nhà của
người Hồi nắm san sát nhau tạo thành 1 cụm chứ không tách thành khu riêng biệt.
Ở mỗi làng Hồi giáo, người ta sẽ xây một cái nhà thờ Hồi giáo (ở trung tâm).
Nhà thờ Hồi giáo trong làng thực hiện 3 chức năng: giáo dục, hội họp và cầu
nguyện (vào trưa thứ sáu hàng tuần).
Ngoài việc ảnh
hưởng nhiều đến đời sống sinh hoạt vật chất của người dân, Hồi giáo còn có ảnh
hưởng rất lớn trong việc kích thích người dân học tập, sáng tạo ra thành tựu
khoa học – kỹ thuật lừng lẫy một thời. Trong thời kỳ hình thành và phát triển
của đế quốc Hồi giáo, dựa vào những điều kiện sẵn có ở trong nước và ảnh hưởng
của bên ngoài mà người Hồi đã không ngừng học tập, để rồi phát minh ra những
thành tựu khoa học – kỹ thuật nổi tiếng nhất thế giới. Tương truyền, năm 830
dưới thời Califa al-Mamun, ông đã cho thiết lập một một trung tâm khoa học lớn,
thu hút các nhà trí thức, nhà bác học từ khắp nơi về đây học tập, nghiên cứu và
dịch thuật. Người dịch nhiều nhất lúc đó là Hunain Ibn Ishaq (809 – 873). Ông
nói rằng đã dịch hơn 100 tác phẩm của Galienus, Aristotle, Platon… từ tiếng Hy
Lạp ra tiếng Ả rập. Đến giữa thế kỷ X, họ dịch hầu hết các tác phẩm về Thiên
văn học, Toán học, Y học của Hy Lạp ra tiếng Ả rập. Những công trình nghiên cứu
của họ trình bày những ý tưởng mới, táo bạo, có logic rõ ràng, ngược hẳn với
giáo lý của nhà thờ Thiên Chúa giáo ở La Mã thời trung cổ. Về toán học, do dịch
được cuốn “Siddhatas” của Ấn Độ, người Ả rập biết được hệ thống chữ số Ấn Độ và
dần hoàn thiện. Không những kế thừa và phát triển, người Ả rập còn biết sáng
tạo. Chữ số “0” (thế kỷ X), tỉ số lượng
giác (sin, cosin, tang, cotang) (thế kỷ IX), nước cất (al – ambik) đầu
tiên….đều do người Ả rập Hồi giáo sáng tạo ra[28]. Chính
những thành tựu khoa học – kỹ thuật đó đã giúp đế quốc Arab Hồi giáo, trở thành
“đầu cầu” để truyền bá các thành tựu văn minh ra bên ngoài (xem cụ thể ở mục
3.5).
Về văn hóa tinh
thần, do ảnh hưởng của Hồi giáo nên người dân Arab có một đời sống tinh thần phong
phú. Điều đó thể hiện qua đức tin, hôn nhân, tang lễ và lễ hội.
Về đức tin, người Hồi có 6 đức tin:
1. Tin chỉ có một vị thánh duy nhất, đó là
thánh Allah. Hồi giáo tin rằng “thánh Allah là duy nhất, độc nhất”[Lê Phụng
Hoàng, văn minh, 73], là vị thần có thể nhìn thấu trời đất để thấy con người và
các hành động của họ dưới trần thế để ra lời phán xét cuối cùng sau khi họ
chết.
2. Tin các vị thiên thần. Hồi giáo cho
rằng, Allah đã sai các vị thiên thần thông thái, siêu phàm của mình giáng trần
để thực hiện mệnh lệnh của Allah và truyền đạo. Họ chính là tai mắt của Allah,
luôn hiện ra trong không gian mờ ảo để theo dõi con người và biên chép lại tội
phúc của họ để trình cho Allah phán xét.
3. Tin các sách mặc khải (Kinh Thánh). Các
tín đồ luôn tin tưởng vào các sách kinh thánh mà Allah đã ban truyền, cử các
thiên sứ giáng trần để truyền bá khắp thế gian. Theo đó, Allah truyền cho Moses
kinh Cựu Ước (Taurat), cho David kinh Zaboor và Jesus kinh Tân Ước.
4. Tin các vị thiên sứ. Các tín đồ tin
tưởng rằng Allah đã cử các thiên sứ, người tin cẩn nhất của mình xuống trần
gian truyền đạo. Kinh Koran thống kê có 28 vị, song nổi tiếng nhất là Noah,
Moses, Abraham, Jesus và Muhammad là Tiên tri cuối cùng và vĩ đại nhất.
5. Tin có ngày tận thế. Các tín đồ tin
rằng, trên thế giới không có cái gì trường tồn cả, cứ trôi nhanh theo quy luật
sinh – lão – bệnh – tử (giống với Phật giáo). Khi con người chết, linh hồn sẽ
xuống địa ngục và khi đến cửa địa ngục, họ sẽ được hai thiên thần canh cửa đến
tra hỏi kỹ càng về các hành động trên trần thế. Nếu phạm tội phải vào địa ngục
chịu cực hình; nếu ăn ở có thiện đức sẽ được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời.
Đến ngày Phán xét cuối cùng, các linh hồn sẽ nhập vào xác rồi đi lên gặp Allah.
Đường đi thật hãi hùng: núi non chuyển động, biển cả sôi lên và lửa địa ngục đỏ
hừng hực lên. Đến nơi, họ sẽ được Allah xét xử công bằng, phân minh, nhân loại
không thể nào tránh được.
6. Tin tưởng nơi số mạng của con người. Hồi
giáo cho rằng, mọi việc trên đời đều do Allah an bài. Allah là kẻ sáng tạo ra
vạn vật (trong đó có con người) và biết hết tất cả mọi hành động của con người
làm ở trên trần thế, Ngài cũng không muốn con người bị cuốn vào vòng tội lỗi để
rồi chịu hình phạt ghê gớm. Do đó, con người cần phải làm chủ cuộc đời của
mình, ăn ở sao cho tốt thì được Allah cho lên thiên đường, bằng không sẽ bị đày
đọa xuống địa ngục. Thế nhưng tín điều này cũng
khẳng định con người được tự do tôn giáo. Hồi giáo quy định rằng, con người
được quyền chọn lựa tôn giáo để theo, tin hay không tin là quyền của mỗi người.
Kinh Koran viết rõ: “Chân lý từ Thiên Chúa, ai muốn thì hãy tin, ai không muốn
thì đừng tin”[29].
Về hôn nhân,
đạo Hồi quy định thủ tục hôn nhân rất khắc khe; đàn ông sẽ là người chủ động
trong vấn đề này và đàn ông là đa thê. Đa số các cuộc hôn nhân đều do
gia đình hai bên sắp đặt, trong khoảng thời gian này thì người con trai và
người yêu của anh ta sẽ không được biết mặt nhau, không gặp nhau cho đến lúc
đám cưới được diễn ra. Sau khi cưới, phụ nữ phải làm việc quần quật và chịu sự
giám sát của mẹ chồng. Khi ly hôn, người đàn ông ly dị vợ rất dễ dàng, anh ta chỉ
cần nói ba lần “Tôi bỏ bà” trước mặt hai người làm chứng là xong. Phụ nữ muốn
ly hôn thì phải tự bào chữa, nói rõ lý do ly hôn và phải được chồng đồng ý thì
mới được ly hôn.
Về tang lễ, người Hồi luôn tin tưởng sẽ có
Tận thế nên họ thực hiện việc tang lễ rất chu đáo. Quy trình tang lễ như sau:
khi một người Hồi giáo đang hấp hối, gia đình và bạn bè sẽ tụ tập xung quanh
người đó, đọc kinh Koran và than khóc, đồng thời cử người đi báo cho chức sắc
tôn giáo biết rằng có người sắp mất. Người sắp mất sẽ được đưa vào thánh đường,
gia đình và họ hàng tổ chức tắm rửa và khâm liệm chu đáo, cầu nguyện tiễn đưa
người chết vào cõi vĩnh hằng. Khi chôn cất, người chết phải được chôn sâu trong
huyệt để người chết có thể ngồi dậy vào ngày Phán xét, chân người chết phải quay
về Mecca khi ngồi dậy mặt
họ sẽ quay ngay về hướng đó.
Về lễ hội Hồi giáo, người Hồi giáo thực
hiện đủ các lễ hội Hồi giáo sau:
a. Lễ hội chấm dứt mùa chay Ramadan.
Đây là lễ hội quan trọng của người Hồi, được tổ chức sau khi mùa chay Ramadan
kết thúc (1/10 theo lịch Hồi). Trong ngày này, các tín đồ được viếng thăm bạn bè và láng giềng, trao
đổi quà tặng và dự tiệc vào buổi trưa. Ngày 1 tháng 10 theo lịch Hồi là
ngày vui nhất trong năm của người Hồi giáo, cũng tương tự như tết Nguyên đán
của người Trung Hoa và Việt Nam .
b. Lễ mừng sinh nhật của giáo chủ
Muhammad (Mawlid). Đây là một
lễ hội lớn của người Hồi, được tổ chức vào tháng 3 hằng năm theo lịch Hồi dể kỷ
niệm ngày sinh của Muhammad, người sáng lập đạo Hồi. Trong ngày này, các tín đồ
ở khắp nơi bắt đầu treo cờ, kết hoa và chăng đèn (tương tự như lễ Noel của đạo
Thiên Chúa). Họ tổ chức kể chuyện, hát bài hát ca ngợi sự kiện này và mời mọi
người dự tiệc trong ngày.
c) Lễ Mừng
Muhammad lên trời (Miraj).
Phái Sufi tin rằng, cả hai vị thánh là Muhammad và Jesus cùng lên trời ở thánh
địa Jerusalem .
Jesus đã tự mình bay lên trời, còn Muhammad được thiên thần Gabriel trao cho
một con ngựa thần có cánh (Buraq) chở ông bay về trời. Phái Sufi của Thổ Nhĩ Kỳ
thường tổ chức các cuộc hòa nhạc kích động và các cuộc khiêu vũ tưng bừng để
mừng lễ này.
d) Lễ hội Ashura
kích động hận thù của giáo phái Shiite. Lễ hội này được tổ chức vào ngày 10
của tháng Muarram để kỷ niệm thánh Husayn (cháu của Tiên tri) bị triều Umayyad
sát hại ở Karbala vào thế kỷ VII. Vào ngày này, nhiều
tín đồ đạo Hồi thuộc dòng Shiite thường than khóc, làm những hành động như
“hành xác”, gây thương tích đối với thân thể mình để thể hiện lòng tôn kính đối
Thánh Husayn, chia sẻ nỗi đau với cái chết của ông vào thế kỷ thứ VII.
3.5. Vai trò của Hồi giáo trong
việc gìn giữ và truyền bá các thành tựu văn minh ra bên ngoài[30]
Dù bận chiến
tranh, nhưng người Hồi giáo lại rất quan tâm đếm việc giáo dục, văn hóa và họ
xem đó là công cụ để gìn giữ và truyền bá thành tựu văn minh của mình ra bên
ngoài. Điều đó thể hiện ở các vai trò sau:
Thứ nhất, họ là người rất có ý thức tìm
kiếm, sưu tầm và dịch thuật các tài liệu của các nền văn minh khác làm tài liệu
cho mình – đây có thể xem là cách ứng xử rất khôn ngoan của người Arab Hồi
giáo. Vào thời kỳ đó, khi Công giáo chính thức được tôn làm quốc đạo vào thời
hoàng đế La Mã Constantinus I (sắc lệnh Milano năm 313), thì không rõ vì lý do
gì mà Thiên Chúa giáo không có ý thức tìm kiếm và sưu tầm tài liệu cổ, họ mặc
sức đốt phá và thiêu hủy các tài liệu cổ một cách không thương tiếc. Theo đó
thì trong thời gian từ thế kỷ IV – V đến thế kỷ XIV, hầu hết các tài liệu cổ
(khoa học, triết học) của các tác giả Hy lạp, La Mã đều bị hủy hoại và cắt xén;
điều đó vô tình làm văn minh Tây Âu bị thụt lùi nghiêm trọng. Tuy nhiên, ứng xử
văn hóa của người Hồi hoàn toàn trái ngược với Thiên Chúa giáo châu Âu. Họ rất
xem trọng sách vở và coi sách vở là nguồn tri thức quan trọng trong việc hiểu
biết về thế giới bên ngoài, cho nên để không bị thua kém, lạc hậu so với các
quốc gia khác thì người Hồi giáo chủ trương sưu tập các loại sách, tài liệu ở
khắp nơi về đọc và dịch thuật. Năm 830, Calif Al-Mamun đã lập ra một trung tâm
khoa học lớn ở Baghdad (một viện nghiên cứu, một đài thiên văn và 1 thư viện),
và ở đó, người ta mời các nhà khoa học về đọc và dịch thuật tài liệu bằng tiếng
Hy Lạp, tiếng Sankrit sang tiếng Arab. Mỗi nhà khoa học nếu dịch xong một tác
phẩm quý giá thì ông được vua ban thưởng bằng tiền (dịch bấy nhiêu trang sách
thì có bấy nhiêu tiền); mỗi lần dịch thuật xong thì người Arab đều lưu giữ lại
hết. Chính vì những hoạt động trên mà người dân Arab Hồi giáo rất biết coi
trọng sách vở - coi sách vở quý như vàng. Thời đế quốc Hồi giáo cực thịnh, nhà
sách, thư viện mọc rất nhiều. Ở Baghdad
có trên 100 nhà sách lớn nhỏ khác nhau; ở thị trấn thì có nhiều thư viện lớn,
nhưng lớn nhất là thư viện Rayy: có 10 thư mục lớn mới ghi hết được tên sách.
Không chi nhà sách công cộng, ở nhà của các hoàng thân Arab cũng có nhiều sách,
lớn nhất là thư viện của hoàng thân Sahib Ibn Abbas (thế kỷ X) có số sách nhiều
bằng sách của các thư viện châu Âu cộng lại. Nhờ hành động “nghĩa hiệp” này của
người Arab đối với tri thức nhân loại mà người châu Âu khi sang Arab đã phải tỏ
lòng biết ơn, vì người Arab có công bảo tồn nhiều tác phẩm vô giá của người Hy
Lạp và họ (người Arab) chính là người gián tiếp “giúp” phát triển phong trào
Phục Hưng sau này.
Thứ hai, một vai trò nữa của người Arab
đó là tiếp thu những thành tựu văn minh ở các nước lớn xung quanh (Trung Quốc,
Hy lạp, Ai Cập…), sau đó truyền bá sang châu Âu. Trong quá trình phát triển của
mình, người Ả rập Hồi giáo đã tiếp thu nghề làm giấy, thuốc súng của Trung
Quốc, hệ thống chữ số của Ấn Độ, nghề luyện kim của các quốc gia Tây Á; các tác
phẩm của Hy – La cổ điển; các loại cây trồng quý như chà là, bông, mía ở Ba Tư,
Ai Cập và Trung Quốc rồi truyền sang châu Âu. Quá trình truyền bá này diễn ra
dưới nhiều hình thức: chiến tranh, truyền giáo và các hình thức khác; truyền bá
theo hai con đường, nhưng đường bộ là nhiều nhất (Con đường Tơ lụa). Chính nhờ
những hoạt động trên của họ mà người châu Âu biết nhiều về phương Đông: họ biết
được nghề làm giấy của Trung Quốc qua con đường Tây Ban Nha vào thế kỷ X, sau
đó lan truyền sang Pháp, Anh, Hà Lan…; người châu Âu học được nghề in ấn của
Trung Quốc qua trung gian Arab Hồi giáo; dẫn tới hình thành máy in đầu tiên vào
thế kỷ XV ở Đức… Như vậy, nhờ vai trò trung gian của mình, nên người Arab thực
chất chính là người “bắt cầu” cho giao lưu văn hóa Đông – Tây, một đặc điểm rất
quan trọng của văn hóa vật chất của người Arab lúc đó.
4: Quá trình
truyền bá và thâm nhập của Hồi giáo ra bên ngoài (cụ thể là Đông Nam Á)
Trong quá trình
tồn tại của mình, Hồi giáo đã không ngừng phát triển và mở rộng ảnh hưởng ra
xung quanh (thế kỷ VII – XIII). Theo nhiều tài liệu viết lại thì trải qua quá
trình truyền bá của mình (bằng con đường hòa bình, bạo lực) thì Hồi giáo đã mở
rộng và có ảnh hưởng sâu rộng đến các quốc gia châu Âu (đặc biệt là vùng Nam Âu
– đế quốc Hồi giáo Cordoba); châu Phi (nhiều nhất là ở Bắc Phi và phần lớn vùng
Trung Phi), châu Á (vùng Trung Cận Đông, Trung Á, Nam Á và Đông Nam Á). Trong
số những vùng đất mà Hồi giáo ảnh hưởng, có lẽ vùng Đông Nam Á (trong đó có
Việt Nam) là nơi Hồi giáo du nhập vào và ảnh hưởng dễ dàng nhất. Vậy thì vì sao
Hồi giáo lại du nhập vào Đông Nam Á ? Các con đường và phương thức truyền như
thế nào và kết quả của sự du nhập này ra sao ?
4.1. Hoàn cảnh lịch sử ở Đông Nam Á trước khi Hồi giáo được
truyền bá
Trước khi Hồi
giáo du nhập vào Đông Nam Á, hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt đã thúc đẩy Hồi
giáo lan nhanh sang Đông Nam Á:
- Về chính trị, đó chính là thời kỳ các
quốc gia Đông Nam Á bị phân tán về mặt chính trị - chưa có mô hình chính trị
(tức nhà nước) thống nhất. Vào thời kỳ đầu tiên khi lập quốc gia, do trình độ
chính trị của người dân thời kỳ đó còn non kém nên họ chưa biết đến tổ chức mô
hình chính trị như thế nào. Để giải quyết, họ chọn mô hình chính trị theo kiểu Mandala (một mô hình chính trị đặc trưng
của Ấn Độ) làm mẫu cho tổ chức chính trị của mình. Theo đó thì, Mandala là “một trạng thái chính trị và thường là không ổn định trong một khu vực
địa lý được xác định mơ hồ vì không có những đường ranh giới cố định, tại đó
những trung tâm nhỏ hơn có xu hướng vươn ra mọi phía”[31].
Các quốc gia Đông Nam Á theo cấu trúc Mandala là Phù Nam , Champa, Chân Lạp, Pagan…. Mặc
dù thiết chế chính trị này có điểm thuận lợi là giúp ổn định đất nước (rất
tương đối), nhưng do cấu trúc quyền lực khác nhau giữa các nước (chư hầu – tôn
chủ) trong Mandala đã dẫn tới cấu trúc này thực sự không bền vững. Hiện tượng
quốc gia này thôn tính quốc gia kia rồi nắm quyền lãnh đạo chư hầu trong
Mandala đã trở thành một hiện tượng tự nhiên – hợp quy luật. Nếu tình trạng này
tiếp tục diễn ra sẽ có hại cho sự tồn vong của quốc gia – nhu cầu thống nhất là
cần thiết và Hồi giáo (môt tôn giáo có tư tưởng thống nhất) đã làm được điều
đó.
- Về kinh tế, Đông Nam Á thời kỳ này
đang có sự chuyển biến kinh tế sâu sắc – từ kinh tế thuần nông chuyển sang kinh
tế thị trường cho phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Như ta đã biết,
kinh tế thuần nông là nền kinh tế chủ yếu của nhà nước phương Đông với nông
nghiệp trồng lúa tự cung tự cấp – tự nuôi sống bản thân người dân mà không có
sự tác động gì từ bên ngoài nào. Vào thế kỷ XI – XII, sự phát triển của các
thành thị đã tạo bước ngoặt lớn trong sự phát triển kinh tế: lúc này sản phẩm
của người dân không chỉ dùng vào tự cung tự cấp mà còn phải buôn bán với bên
ngoài, để tăng thêm nguồn lợi cho bản thân. Nhận thức điều này, nhiều trung tâm
thương mại lớn nằm dọc các quốc gia Đông Nam Á, lớn nhất là ở Srivijaya – trung
tâm buôn bán khá tấp nập nhất thời đó. Tuy nhiên, do kinh tế thời kỳ này hướng
về phía Trung Quốc, bị phân tán theo từng quốc gia riêng biệt, điều đó gây bất
lợi cho sự phát triển chung của kinh tế Đông Nam Á; vì thế Hồi giáo vào được là
điều hiển nhiên.
- Về xã hội, cấu trúc xã hội ở các quốc
gia không thống nhất; nhưng nhìn chung thì quốc gia theo Ấn Độ giáo là nhiều
nhất. Ở các quốc gia theo Ấn Độ giáo, người dân phải chấp nhận rất thoải mái
chế độ đẳng cấp (không nghiệt ngã như Ấn Độ); tuy nhiên sự phân biệt đẳng cấp
đã làm cho mối quan hệ giữa những người dân không được gắn bó với nhau – họ thù
hằn, gây chiến lẫn nhau chỉ vì đẳng cấp; điều đó là không phù hợp với một khối
các quốc gia Đông Nam Á đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ nhau (tính cộng đồng ở
Đông Nam Á rất cao). Chính vì điều này nên chế độ đẳng cấp Ấn Độ giáo tỏ ra lỗi
thời, không phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội Đông Nam Á nên buộc
phải thay đổi bằng một chế độ xã hội khác phù hợp – hợp quy luật. Ngoài ra thì
về mặt tư tưởng – tôn giáo, cả quốc
gia theo Ấn Độ giáo và tôn giáo nguyên thủy đều thờ đa thần (mặc dù Ấn Độ giáo
có quy định 3 vị thần quan trọng là Brama, Vishnu và Shiva; nhưng đa thần còn
nhiều), điều này cũng không phù hợp và
buộc phải thay đổi bằng cái mới.
4.2. Các con đường, phương thức truyền bá và thành phần truyền bá Hồi
giáo vào Đông Nam Á
Hiện nay, có khá
nhiều giả thuyết nói về con đường du nhập
của Hồi giáo[32] vào Đông Nam Á[33];
nhưng chúng tôi tạm theo ý kiến được đa số người chấp nhận nhất[34]
và khắc họa sơ lược và cơ bản về con đường, cũng như thành phần tham gia cuộc
du nhập và phương thức Hồi giáo du nhập vào Đông Nam Á như thế nào. Tuy nhiên,
để tiện theo dõi bài viết thì chúng tôi tạm chia quá trình truyền bá Hồi giáo
vào Đông Nam Á thành hai thời kỳ: thời kỳ
1: là thời kỳ Hồi giáo có mầm mống ở Đông Nam Á (thế kỷ VII – XIII); thời kỳ
2: là Hồi giáo được du nhập và xác lập ảnh hưởng của mình ở các quốc gia
Đông Nam Á (thế kỷ XIII – XVIII).
Thời kỳ 1: là thời kỳ Hồi giáo có mầm
mống ở Đông Nam Á (thế kỷ VII –
XIII). Đây là thời kỳ Hồi giáo hình thành và phát triển mạnh, gây ảnh hưởng ra
xung quanh, nhất là Đông Nam Á. Trong thời kỳ này, với thành phần chủ yếu là
thương nhân và giáo sĩ người Arab, Hồi giáo đã từng bước được “du nhập” vào
Đông Nam Á một cách hòa bình[35] qua
hai con đường: đường bộ và đường biển[36]. Nơi
Hồi giáo tới lúc này chỉ có 3 nước là Champa , Indonesia và Brunei .
Về Champa, người
Arab đã đem tôn giáo mới này xuôi theo Con đường Tơ lụa đến Trung Quốc, rồi
xuôi về Nam
và đến Champa vào giữa năm 652. Hồi giáo đã chính thức hiện diện ở Champa vào
giữa thế kỷ X[37], thể
hiện trong các tài liệu ghi chép của Trung Hoa và Pháp; các bia mộ có liên
quan. Tống sử (Trung Quốc) có ghi những điều liên quan đến Hồi giáo ở Champa: “Cũng có giống trâu núi không dùng để cày bừa
mà dùng để cúng tế. Trước khi giết, thầy cúng đọc câu kinh A-la-hòa-cập-bạt
(Allahu Akbar)”[38]. Tài
liệu của Manguin (Pháp) cũng ghi rõ: vua Champa vào năm 951 có gửi đại sứ
(người Hồi) sang sứ Trung Hoa. Biên niên sử Champa ghi nhận một ông vua là Po
Uwlawh hành hương ở Mecca ,
và về làm vua (1000 – 1036). Về bia mộ Champa, người ta tìm thấy nhiều bia mộ
có cùng niên đại là thế kỷ XI ở miền Trung Việt Nam; trong đó có 2 bia mộ lớn ở
Phan Rang được một tác giả người Pháp là Ravaisse (1922) giải mã thành công.
Bia đầu tiên là bia mộ của Al-Kamil (1039); bia thứ hai là nói về sự hiện diện
của cộng đồng Champa theo Hồi giáo ở vương quốc Champa[39].
Về Indonesia , người Arab đã
đến đây bằng đường biển vào thế kỷ VII và bắt đầu du nhập Hồi giáo vào Indonesia . Bằng
chứng của nó chính là các bia mộ, các ghi chép của sử cũ. Cụ thể là bia mộ của
người phụ nữ tên là Hibatullah ở vùng duyên hải phía bắc khu vực Tây Java (thế
kỷ IX), bia mộ của người phụ nữ tên là Amsuri ở Barus (thế kỷ XI). Sử cũ của
Indonesia cũng ghi chép rằng, khi người Arab đến Indonesia thì họ chỉ thiết lập
các khu buôn bán như ở bờ biển thuộc Sumatra, đảo Riau Lingga và Pulau Tioman; nhưng
không hề có hoạt động buôn bán gì cả trên các khu này. Ngay cả ở
Brunei, người Arab cũng đã du nhập Hồi giáo vào, mà bằng chứng cụ thể đó là bia
mộ của người phụ nữ tên là Makhdarah có niên đại năm 1048[40]; hoạt động
buôn bán ở Brunei thì không tài liệu nào nói đến cả.
Như vậy, qua
những cứ liệu về sự du nhập của Hồi giáo vào Đông Nam Á ở thời kỳ 1 thì ta có
thể thấy rằng, Hồi giáo đã bắt đầu được du nhập, dần tạo được chỗ đứng trong
lòng người dân bản địa (đó là tạo lập cộng đồng Hồi giáo đầu tiên ở Đông Nam Á).
Tuy nhiên, sự du nhập này của tôn giáo này qua hai con đường chưa thực sự rõ
nét và phổ biến; và điều này là có lý do: thứ
nhất, về tôn giáo thì người dân bản địa chịu ảnh hưởng của đạo Bà La Môn
rất mạnh; Hồi giáo truyền vào với tư tưởng mới nên chỉ có tầng lớp trên tiếp
thu, tầng lớp dưới khó tiếp thu; thứ hai,
về thương mại thì vào thời đó do kinh tế Đông Nam Á còn nghèo nàn (ít thành thị
như phương Tây, cơ sở kinh tế lạc hậu), tư tưởng “hạn chế thương nghiệp” của Ấn
Độ giáo và ảnh hưởng rất lớn của thương mại Trung Hoa đã làm cho Hồi giáo thời
kỳ từ thế kỷ VII – XIII mặc dù được du nhập nhưng chưa được phổ biến rộng rãi.
Thời kỳ 2: là thời kỳ Hồi giáo được du nhập
và lan rộng ở khắp các quốc gia Đông Nam Á (thế kỷ XIII – XVIII).
Vào thế kỷ XIII, trên thế giới diễn ra sự kiện quan trọng: Mông Cổ, một
đế quốc mới nổi lên ở Đông Nam Á, đã tiêu diệt đế quốc Ảrập (1258), chiếm lĩnh
châu Á, một phần châu Âu, cắt đứt con đường buôn bán hương liệu từ Đông sang
Tây[41] của các
thương gia Ảrập Hồi giáo. Aden[42].
Vào thế kỷ
XIII – XV, các thương gia Hồi giáo (xuất phát từ Gujerat, Malabar, bờ biển
Coromandel, Bengal) đã đến quần đảo Malaya – Indonesia buôn bán, định cư, lấy
vợ người bản xứ…nhiều đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các tu sĩ Hồi giáo xâm
nhập vào vùng đất này truyền đạo. Giới quý tộc bản xứ, từ lâu đã thèm khát của
cải của người Hồi nên đã vui vẻ chào đón, kết thân và tiếp nhận tôn giáo của họ.
Kết quả là, ngay từ thế kỷ XIII – XIV ở nơi đây (tức Đông Nam Á hải đảo[43]) đã xuất
hiện nhiều quốc gia Hồi giáo như vương quốc Acheh (1292), vương quốc Samudera
Pasai (1297) ở Indonesia; vương quốc Melaka (1414) ở Malaysia và vương quốc
Sulu của Philippines (thế kỷ XIV). Từ sự kiện các quốc gia đầu tiên ở Đông Nam
Á ở Đông Nam Á thành công, như một “luồng điện”, Hồi giáo đã nhanh chóng lan
truyền sang các nước xung quanh, mạnh nhất là ở Malaysia . Sau sự kiện Melaka theo
Hồi giáo, một loạt các quốc gia khác xung quanh Malaysia như Terengganu, Pattani, Kelantan, Demak… thông qua hôn
nhân và truyền giáo đã nhanh chóng du nhập Hồi giáo vào các nước này. Ở các
nước vùng Đông Nam Á lục địa như Champa (Việt Nam), Thái Lan và Campuchia, Hồi
giáo có du nhập vào, nhưng ảnh hưởng không đều và khộng mạnh mẽ như các nước
Đông Nam Á hải đảo. Ở Champa, sau một thời gian dài lan truyền thì đến thế kỷ
XV (1471) – với sự kiện Champa bị Đại Việt đánh bại, nhiều người Chăm đã lưu
lạc sang Melaka, Campuchia. Tại đây, họ tiếp thu Hồi giáo, sau đó về nước mang
theo tôn giáo này. Trong thế kỷ XV – XVIII, trải qua nhiều biến cố lịch sử thì
người Chăm (có tiếp thu Hồi giáo) bị phân hóa: một nhóm người Chăm sau khi lưu
lạc ở Campuchia đã trở về vùng Châu Đốc, Tây Ninh, theo đúng giáo lý Hồi giáo
và người ta gọi họ là Chăm Hồi giáo. Một bộ phận người Chăm khác (cũng theo Hồi
giáo – nhưng chưa khi nào tuân thủ đúng) thì lên định cư ở Ninh Thuận, Bình
Thuận và họ được gọi là Chăm Bani[44]Nam
Sự du nhập và phát triển
nhanh chóng của Hồi giáo vào các nước Đông Nam Á (đặc biệt là Malaysia) không
phải là không có lý do; theo chúng tôi, lý do cụ thể là: Thứ nhất, các vua Hồi giáo ở Đông Nam Á (ở Malaysia, Indonesia) coi
Hồi giáo là vũ khí sắc bén để mở rộng lãnh thổ và truyền bá tôn giáo của mình,
nên tuyên bố sẽ giúp các tiểu quốc đấu tranh thoát khỏi quyền lực nhà Majapahit
với điều kiện là họ phải theo Hồi giáo của Melaka – quốc gia đầu tiên khởi
xướng việc làm này. Thứ hai, tước
hiệu “Sultan” đã cuốn hút mạnh mẽ giới quý tộc các tiểu quốc đua nhau cải đạo
Hồi giáo, tạo điều kiện cho Hồi giáo phát triển mạnh mẽ.
Sở dĩ Hồi giáo du nhập
vào Đông Nam Á dễ dàng, là vì nó gặp những thuận lợi sau:
Thứ nhất, Hồi giáo đến Đông Nam Á (Indonesia ,
Malaysia
vào lúc đế quốc Ấn Độ giáo Majapahit đang rơi vào khủng hoảng và tan rã. Lúc
này, thương mại ở Đông Nam Á bị cuốn vào vòng xoáy của cơn lốc thị trường quốc
tế; hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã lỗi thời, không phù hợp với nhu cầu
phát triển của thương trường và xã hội. Sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Ấn Độ
giáo đã tạo sự trống rỗng niềm tin, một lỗ hổng lớn cho Hồi giáo len vào và
phát triển. Hồi giáo với tư tưởng tự do, bình đẳng, nó giúp giải phóng con
người ra khỏi các quan niệm khắc nghiệt của Ấn Độ giáo và hướng tới cho họ một
cộng đồng Hồi giáo rộng lớn.
Thứ hai, ở khu vực
Đông Nam Á khi đó đang có sự chuyển hướng kinh tế. Từ một nền kinh tế nông
nghiệp tự cung tự cấp ban đầu, giờ đây nó đã trở thành trung tâm buôn bán hương
liệu quan trọng, nhất là cho châu Âu đang phát triển. Qua các con đường trao
đổi buôn bán, Hồi giáo đã dần dần xâm nhập vào Malaysia . Các nguyên tắc bình đẳng,
phóng khoáng của Hồi giáo phù hợp với người dân, quý tộc nên đã được họ hào
hứng đón nhận nồng nhiệt. Trong bối cảnh đó, Hồi giáo trở thành ngọn cờ của các
tiểu quốc đấu tranh chống đế chế Majapahit và giành độc lập, tiêu biểu là
Melaka. Từ một làng chài nghèo nàn, Melaka đã dần vươn lên thành quốc gia hung
mạnh về quân sự và có tiềm lực kinh tế lớn. Chính sự thành công của Melaka đã
cổ vũ các nước thuộc Majapahit cải theo Hồi
giáo và tham gia vào thương trường quốc tế.
Thứ ba, Hồi giáo
đến với Đông Nam Á trong hòa bình nên phù hợp với tâm lý người dân địa phương,
giúp họ dễ dàng hòa nhập vào tôn giáo mới này. Tính bao dung, độ lượng, và sự thích nghi
tốt với các tín ngưỡng địa phương đã làm giảm đi sự đố kị, hận thù giữa các dân
tộc bản địa, khiến họ dễ chấp nhận tôn giáo mới hơn. Ở các vương quốc Malaysia
và Indonesia, chế độ vương quyền và lòng trung thành của người dân với Sultan
(vua Hồi giáo) đã khiến nhà vua khi cải đạo Hồi giáo, thì toàn dân tất sẽ noi
theo[45].
Thứ
tư, sự tồn tại của chủ
nghĩa thần bí trong Hồi giáo đã khiến cho Hồi giáo du nhập vào Đông Nam Á một
cách tự nhiên mà không gặp phải sự cản trở nào. Malaysia
Thứ năm, việc sử dụng tiếng Malay đã làm cho Hồi giáo lan truyền
nhanh hơn trên bán đảo. Trước khi Hồi giáo tới, ngôn ngữ này đã được cư dân sử
dụng nhiều trong giao tiếp, buôn bán ở quần đảo Malayu – Indonesia . Khi
Hồi giáo vào thì ngôn ngữ này đã trở thành quốc
tự (ngôn ngữ quốc gia) sử dụng nhiều trong các mặt chính trị, kinh tế, xã
hội ở khu vực Đông Nam Á. Và không chỉ có Malaysia, Indonesia mà ở trên Đông
Nam Á lục địa, tiếng Melayu vẫn được sử dụng trong tôn giáo ở Nam Thái Lan,
Campuchia và Việt Nam.
4.3. Các đặc điểm truyền bá Hồi giáo ở Đông Nam Á
- Hồi giáo lan
truyền không thông qua con đường chiến tranh mà thông qua con đường “hòa bình”,
không gặp phải bất cứ sự cản trở hay chống đối của cư dân bản địa. Điều này dễ
hiểu, vì lưỡi gươm xâm lược của Hồi giáo sau một thời gian chinh chiến ngang
dọc, gây ảnh hưởng khắp nơi từ Đông sang Tây đã dần suy yếu, không còn đủ sức
để chiến tranh mà dồn sức vào để củng cố và phát triển đất nước. Vì thế, họ đã
quyết định truyền bá tôn giáo này đi (vì sợ nó sẽ biến mất) và con đường lan
truyền của họ được thực hiện trong sự hòa bình. Họ truyền bá một cách tự nhiên
với tư tưởng bình đẳng, nguyên tắc dân chủ giữa mọi người, và tư tưởng của nó
rất phù hợp với lối sống của người dân bản địa nên họ đi theo mà không một chút
trở ngại gì.
- Một đặc điểm
nữa là Hồi giáo khi truyền sang Đông Nam Á thì truyền bằng đường biển, tốc độ
lan truyền nhanh đến nỗi nó lấn át cả tôn giáo cũ (Ấn Độ giáo). Sở dĩ họ truyền
tôn giáo này bằng đường biển là vì con đường bộ bị cắt đứt – giao thương bị
gián đoạn; mặc khác, thương mại ở Đông Nam Á chủ yếu hướng về biển nên Hồi giáo
truyền bằng đường biển là tất yếu. Quá trình lan truyền của Hồi giáo sang Đông
Nam Á nhanh hay chậm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố con người và
giao thông là hai yếu tố chính. Thời kỳ đầu, Hồi giáo lan truyền chậm là vì
vùng Đông Nam Á chưa được người Hồi chú ý nhiều, đất đai còn hoang sơ, kinh tế
thuần nông nghiệp nên ít thu hút họ vào Đông Nam Á. Thời kỳ sau, Hồi giáo được
lan truyền nhanh là vì thương nhân Hồi giáo đến buôn bán nhiều (buôn bán sản
vật rất phong phú, nhiều tiềm năng mà con người chưa khám phá hết). Thương nhân
đến, họ đem nhiều vàng bạc qua trao đổi đã làm “lóa mắt” quý tộc bản xứ. Nhiều
quý tộc bản xứ vì nhìn thấy sự giàu có của người Arab Hồi giáo đã vội từ bỏ tôn
giáo cũ để theo tôn giáo mới. Ngoài ra, chế độ đẳng cấp lỗi thời của Ấn Độ giáo
đã giam hãm, tạo hố ngăn cách giữa người dân với nhau. Hồi giáo với tư tưởng
bình đằng, dân chủ, tôn trọng phụ nữ đã nhanh chóng vào cuộc, lan truyền nhanh
đến nỗi áp đảo và làm biến mất tôn giáo cũ.
Đạo Hồi khi
truyền bá sang Đông Nam Á đã dần có sự nhập, pha trộn văn hóa và phong tục tập
quán và tín ngưỡng địa phương, thể hiện khuynh hướng “nhập thế” của tôn giáo
với cộng đồng dân bản địa. Tư tưởng “nhập thế” từ lâu đã có trong lòng các tôn
giáo, thể hiện qua một số nội dung như bình đẳng, dân chủ, tôn trọng phụ nữ….
Khác với Hồi giáo ở khu vực bản địa (bán đảo Arab), Hồi giáo vào Đông Nam Á,
“nhập thế” với tôn giáo bản địa tạo thành “phức hợp tôn giáo” (từ dùng của tác
giả) thống nhất. Điều này thể hiện rất rõ trong các quy định về nghĩa vụ, nghi
lễ, thái độ ứng xử của Hồi giáo đối với đời sống xã hội. Các nghĩa vụ khắc khe,
đòi hỏi người dân phải làm như: 5 cốt đạo, 6 đức tin, các nghĩa vụ của tín đồ;
thì sang Đông Nam Á, vì “cộng sinh” với văn hóa bản địa vốn chan hòa, rộng rãi
và độ lượng nên 5 cốt đạo, 6 đức tin, các nghĩa vụ của tín đồ được giảm nhẹ,
thậm chí một số thì làm tượng trưng. Một điều đặc biệt là phụ nữ Đông Nam Á rất
được tôn trọng, không bị phân biệt và đối xử như phụ nữ Arab. Họ được hưởng mọi
quyền tự do, dân chủ, bình đẳng trong cuộc sống và quan hệ với cộng đồng người
trong xã hội Đông Nam Á.
- Đạo Hồi khi
truyền bá sang Đông Nam Á có sự kết hợp yếu tố thần bí của phái Sufis – đây là
đặc điểm chính của truyền bá Hồi giáo ở Đông Nam Á. Đối với người Sufis, mong
muốn của họ chính là giúp con người gần gũi với Allah cho tới khi họ “trở
thành” Allah (đồng nhất với Allah).
[1] Về
năm sinh của ông thì nhiều tài liệu viết khác nhau: Nguyễn Đức Lữ trong Lý luận về tôn giáo và chính sách đối với
tôn giáo của Đảng và nhà nước ta (tập bài giảng), tr. 155 và những lời
truyền của tín đồ Islam giáo thì ông sinh năm 570. Còn các tài liệu như Lịch sử Trung Cận Đông của Nguyễn Thị
Thư (tr. 73), Tôn giáo và quan hệ quốc tế
của Lê Thanh Bình (tr. 99), khóa luận: Những
thành tựu văn hóa tinh thần của Ả rập thời kỳ “Văn minh Hồi giáo” (VII –
XV) của Đỗ Thị Minh Trang (ĐHSP Tp.Hồ Chí Minh) (tr.13) đều ghi ông sinh năm
571. Ở đây, tác giả theo ý kiến số đông tài liệu và khẳng định Muhammad sinh
năm 571. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[2] Lê Phụng
Hoàng (2009), Lịch sử quan hệ quốc tế
Trung Đông từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến các hiệp định Oslo (1945 – 1995).
Lưu hành nội bộ, tủ sách ĐHSP, tr. 12.
[3] Bernard
Lewis (2000), Lịch sử Trung Đông 2.000
năm trở lại đây, NXB Tri thức, Hà Nội, tr. 69.
[4] Josef W. Meri
(2005), Medival Islamic cilivization an
Encyclopedia, Routledge, Taylor and Francis Group, p. 535.
[5] Nguyễn
Đức (và những người khác) (2002), Islam
Hồi giáo, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 20.
[6] Năm 657, Uthman công bố cuốn kinh này, đặt tên là “"Mus’haf" có nghĩa là "Kinh Thánh chính
thức của mọi người Hồi giáo". Ban biên tập của Zayd chép cuốn Kinh Thánh
này thành 4 bản giống nhau để lưu trữ tại 4 thành phố: Medina ,
Basrah và Kufa (Iraq ) và tại
Damacus (Syria ).
[7] Về
số câu trong kinh Koran thì nhiều tài liệu viết khác nhau: sách Lịch sử văn minh thế giới của TS Nguyễn
Đức Hòa viết là 6.211 câu, sách Tôn giáo
học nhập môn của TS Đỗ Minh Hợp (tr.313) viết là trong khoảng từ 6.204 đến
6.236 câu; sách Hồi giáo lược khảo
của GS Phan Thế Châu (tr.11) viết là 6.246 câu;. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[8] Lê Thanh
Bình (2012), Tôn giáo và quan hệ quốc tế,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 106.
[9] Nguyễn Gia
Phu (và những người khác) (2003), Lịch sử
thế giới trung đại, NXB Giáo dục, tr. 380.
[10] Thiên kinh
Koran , ý nghĩa và nội dung (2004), Trung tâm Ấn loát Quốc vương Fahad xuất
bản, tr. 187.
[11] Thái
Nguyễn Đức Minh Quân (2012), Sự du nhập
và ảnh hưởng của Hồi giáo đến Malaysia
(thế kỷ XV_2000), khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sài Gòn, tr. 10.
[12]
11 vấn đề đó là: (1) Tẩy uế; (2) Cầu nguyện; (3) Cầu nguyện cho người chết; (4)
Thuế người nghèo; (5) Ăn chay; (6) Hành hương; (7) Thương mại; (8) Thừa kế; (9)
Cưới xin; (10) Ly hôn; (11) Công lý. Theo Trần Thị Lan Hương, Hà Thị Việt Châu
(2012), Luật Hồi giáo Sharia và vai trò của nó trong đời sống công cộng ở các
quốc gia Trung Đông, Tạp chí nghiên cứu
Châu Phi – Trung Đông, số 77, tháng 1/2012, tr. 19.
[13] Iraq
[14]
Thái Nguyễn Đức Minh Quân (2012), “Những đặc
điểm văn hóa – xã hội truyền thống của các nước Ả Rập”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các nước Arab: truyền thống và hiện tại,
ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 248.
[15] Nguyễn
Đức Hòa (2011), Lịch sử văn minh thế giới,
NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 50 – 51.
[16] Nguyễn Đức Lữ (2004), Lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và nhà nước
ta (tập bài giảng), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 161.
[17] Vũ Dương Ninh (2011), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục Việt Nam , tr. 55 –
56.
[18] Trần
Đăng Sinh (2011), Giáo trình tôn giáo học,
NXB DHSP, Hà Nội, tr. 103.
[20]
Thái Nguyễn Đức Minh Quân (2012), Sự du
nhập và ảnh hưởng của Hồi giáo đến Malaysia (thế kỷ XV_2000), khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Sài Gòn, tr. 20.
[21] Thiên kinh
Koran, ý nghĩa và nội dung (2004), Trung tâm Ấn loát Quốc vương Fahad xuất
bản, tr. 84 (chương 4, câu 34).
[22]
Đặng Hữu Toàn (2005), Các nền văn hóa thế giới, tập 1 – Phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ, Ả
rập), NXB Từ điển Bách khoa, tr. 368.
[24] Peter
Mansfield (1985), The Arabs, Penguin
Book, p. 26.
[25] Ali
có tới bốn trăm bà; al Teiyib 85 tuổi,cưới chín trăm bà. Gần đây nhất, năm
2011, một doanh nhân ở Saudi Arabia là al – Sayeri cưới tới 58 bà, sinh được 10
con trai và nhiều con gái.
[26] Purdah (tiếng Ba Tư có nghĩa là “bức màn”): nghĩ là
tục cấm cung giữa đàn ông và phụ nữ. Theo tục này, phụ nữ sẽ phải mặt áo dài, che mặt lại, ở riêng
trong 1 phòng cách biệt với bên ngoài. Trong thời gian này, đàn ông và phụ nữ
sẽ không biết nhau, thậm chí không nhìn thấy nhau cho đến lúc đám cưới. Trích
theo W. Durant(2002), Lịch sử văn minh Ả
rập, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 357.
[27]
Shimagh, ghutra: là hai loại mảnh vải vuông trùm đầu phổ biến của người Hồi. Shimagh là mảnh vải cotton kẻ caro lớn
được giữ lại bằng sợi dây, còn ghutra là
mảnh vải vuông màu trắng cũng bằng cotton nhưng mịn hơn và được giữ lại bằng
sợi dây.
[28] Thái
Nguyễn Đức Minh Quân (2012), “Những đặc điểm văn hóa – xã hội truyền thống của
các nước Ả Rập”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa
xã hội các nước Arab: truyền thống và hiện tại, ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh,
tr. 245 – 246.
[29] Thiên kinh Koran (chương 18 – câu 30),
sđd, tr. 1080.
[30]
Phần này được viết theo bài viết của TS Nguyễn Đức Hòa (2013), “Đặc điểm và vai
trò của văn minh Arab Hồi giáo trong việc gìn giữ, truyền các thành tựu văn
minh thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa
xã hội các nước Ả rập: truyền thống và hiện đại, ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh,
tr. 71 – 74, nhưng được rút gọn và bổ sung (kết hợp suy luận) để làm rõ vai trò
của Hồi giáo đối với việc truyền bá các thành tựu văn minh ra bên ngoài – một
đặc điểm rất nổi bật của nền văn hóa vật chất Hồi giáo thời kỳ đó.
[31] O.
W. Wolters (1982), History, Culture
and region in Southeast Asian Perspertives, Asian Studies, Revised Edition, p. 27.
[32]
“Du nhập của Hồi giáo” là một khái niệm mới. Sự du nhập của tôn giáo được thể
hiện thông qua chữ khắc, bia đá có khắc chữ, bia mộ; khái niệm nay khác với
khái niệm “Hồi giáo hóa”. “Hồi giáo hóa” là quá trình dài diễn ra trong nhiều
thế kỷ, nội dung chủ yếu là dẫn dắt và đưa tín đồ theo tôn giáo mới, sàng lọc
các yếu tố không phải Hồi giáo để giúp Hồi giáo được hiện thực hóa trong cuộc
sống hàng ngày của người dân. Theo Văn Kim Hoàng Hà (2012), “Nguồn sử liệu về
sự du nhập của Hồi giáo ở Đông Nam Á”, Kỷ
yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các nước Ả rập: truyền thống và hiện đại,
ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 35
[33] Có người cho rằng Hồi giáo đến Đông Nam Á bắt nguồn
từ Arab, Ai Cập (học giả phương Tây), Ấn Độ (Pijnappel, Hurgronje), bờ
biển Coromandel (Marisson), Bengal (Tome
Pires, Fatimi)…, nhưng quan điểm về nguồn gốc Ấn Độ của Hồi giáo ở Đông Nam Á
chiếm 60 – 80% (tác giả chú).
[34] Là quan
điểm cho rằng nguồn gốc Hồi giáo ở Đông Nam Á chính là Ấn Độ (tác giả chú).
[35]
Thomas W.Arnold (1950), The Preaching of
Islam: A history of the Propogation of the Muslim faith, London , p. 42.
[36] Theo
khảo cứu của tác giả trong nhiều tài liệu khác nhau: Đường bộ có lẽ đi từ
phương Đông, chạy dọc theo Con đường Tơ lụa (do Trương Khiên tạo dựng ở Trung
Quốc từ thế kỷ II TCN, dài 7000 km nối từ Phúc Châu (Trung Quốc) sang đến tận
châu Âu). Tại con đường này, người Arab (và người ở nơi khác) buôn bán rất nhộn
nhịp. Đường biển thì từ phương Đông qua vịnh Ba Tư, bờ biển Levantine rồi lên
Bắc Âu, cũng rất nhộn nhịp thời đó (tác giả chú).
[37]
Nguyễn Đức Hòa (2013), “Đặc điểm và vai trò của văn minh Arab Hồi giáo trong
việc gìn giữ, truyền các thành tựu văn minh thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các nước Ả rập: truyền thống và hiện đại,
ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 75.
[38]
Trần Thuận (2013), “Yếu tố Arap trong đời sống văn hóa Chăm ở Việt Nam ”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các nước Ả
rập: truyền thống và hiện đại, ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 322.
[39]
Zakaria Ali (1994), Islamic Art of Champa
in Southeast Asia 830 AD – 1570, Dewan Bahasa dan Pustaka – ministry of
Education Malaysia – Kuala Lumpur ,
p. 22, 25.
[40]
Văn Kim Hoàng Hà (2012), “Nguồn sử liệu về sự du nhập của Hồi giáo ở Đông Nam
Á”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các
nước Ả rập: truyền thống và hiện đại, ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 39.
[41]
Con đường mà các thương gia Hồi giáo Ảrập trước thế kỷ XIII mở là từ phương
Đông qua vịnh Ba Tư, bờ biển Levantine rồi lên Bắc Âu, rất nhộn nhịp thời đó.
[42]
Văn Kim Hoàng Hà (2012), “Nguồn sử liệu về sự du nhập của Hồi giáo ở Đông Nam
Á”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các
nước Ả rập: truyền thống và hiện đại, ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh, tr. 35.
[43] Ở
đây chúng tôi dùng cụm từ “Đông Nam Á hải đảo” là để phân biệt phạm vi ảnh
hưởng, tốc độ ảnh hưởng của Hồi giáo ở Đông Nam Á. Đông Nam Á là một vùng rộng
lớn với diện tích 4,5 triệu km2, dân số là hơn 620 triệu người; có
hai vùng (phân về mặt địa lý) là: Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á lục địa;
Đông Nam Á hải đảo có Hồi giáo ảnh hưởng mạnh nhất, sau mới đến Đông Nam Á lục
địa; xin ghi lại để tham khảo.
[44]
Phần thông tin trên được tổng hợp từ các bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa xã hội các nước Ả rập: truyền thống và hiện đại,
ĐHKHXHNV Tp. Hồ Chí Minh: Nguyễn Duy Bính (2013), “Cộng đồng Islam giáo ở Việt Nam ”, tr. 3 –
4; Nguyễn Đức Hòa (2013), “Đặc điểm và vai trò của văn minh Arab Hồi giáo trong
việc gìn giữ, truyền các thành tựu văn minh thế giới”, tr. 76; Trần Thuận
(2013), “Yếu tố Arap trong đời sống văn hóa Chăm ở Việt Nam”, tr. 326 – 327.
[45]
Nguyễn Thị Mai Hoa (2011), “Hồi giáo ở Đông Nam Á”, Kỷ yếu hội nghị khoa học cán bộ nữ 9 - ĐHQGHN , tr. 659.