Tham luận
Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên”
Những đóng góp của Đoàn Minh Huyên (Phật thầy Tây An) trong việc trị bệnh
và khẩn hoang, lập làng ở vùng đất An Giang xưa
Thái
Nguyễn Đức Minh Quân
Nhìn lại lịch sử hình
thành và phát triển của vùng đất An Giang xưa, có thể nói Đoàn Minh Huyên (Phật
Thầy Tây An) là một trong những nhân vật rất đặc biệt, có sức ảnh hưởng rất lớn
mà cho đến ngày nay, người dân An Giang vẫn rất kính trọng và tôn thờ. Vậy những
đóng góp của Đoàn Minh Huyên trên vùng đất An Giang này là gì ? Đó là: ông có
công rất lớn trong việc trị bệnh và vận động nhân dân khai hoang lập ấp ở vùng
đất Nam Bộ xưa (trong đó có An Giang), trị bệnh, thành lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
mà nội dung là Tứ ân hiếu nghĩa: nói về đạo làm người, các giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam thuở xưa. Trong khuôn khổ của Hội thảo kỷ niệm về nhân vật
lịch sử Đoàn Minh Huyên, chúng tôi xin đề cập vài nét về tiểu sử của Đoàn Minh
Huyên, qua đó làm rõ hơn những dấu ấn của ông đối với việc trị bệnh, khẩn hoang
vùng đất An Giang xưa để từ đó giúp cho giới trẻ hiện nay và mai sau hiểu biết
nhiều hơn và cụ thể hơn về Đoàn Minh Huyên, từ đó làm cho nhân dân An Giang
thêm yêu quý xứ sở, ra sức làm tròn nghĩa vụ xây dựng quê hương An Giang ngày
càng giàu đẹp.
1.
Phật Thầy Tây An Đoàn
Minh Huyên: con người và sự nghiệp
Trước khi tìm hiểu về
thân thế, sự nghiệp của Đoàn Minh Huyên ở vùng An Giang xưa thì chúng ta hãy
tìm hiểu sơ lược về tình hình Việt Nam (nhất là miền Tây Nam Bộ - quê
hương của Đoàn Minh Huyên) vào nửa đầu thế kỷ XIX. Trong nửa đầu thế kỷ XIX vào
thời Nguyễn, người dân Nam Bộ (nhất là miền Tây) đã phải gánh chịu 3 biến động
lớn : đầu tiên là bị bắt đi lính cho triều
đình, thứ hai là dịch bệnh hoành hành, bệnh tật triền miên đe dọa mạng sống của
họ; thứ ba là mâu thuẫn với người Chăm, Cao Miên (Campuchia) khi họ (Chăm, Cao
Miên) di cư vào sinh sống.
Về việc nhân dân bị triều
đình bắt lính, bệnh tật triền miên thì có thể nói từ sau khi được thành lập, triều
đình Nguyễn luôn phải chống đỡ các cuộc nổi dậy của nông dân (trong suốt 3 triều
vua đầu tiên đã có gần 1.000 cuộc khởi nghĩa nổ ra) trong nước và nạn ngoại
xâm. Do là một triều đại được lập nên sau thắng lợi trước quân Tây Sơn, triều
Nguyễn một mặt tăng cường quyền lực cho trung ương – địa phương, mặt khác thực
hiện chính sách bảo hộ Viengtiane (Lào) và Oudong (Campuchia) chống lại ảnh hưởng
của Xiêm lên hai quốc gia này. Ngoài ra, để tăng cường bảo vệ biên giới Tây
Nam, triều đình nhà Nguyễn huy động khoảng 3 vạn dân phu (trong tổng số dân là
79.092 người ở Tây Nam Bộ - số liệu năm 1847) đi đào kênh Thoại Hà (1817), Vĩnh
Tế (1819)…; việc huy động dân đi phu nhiều như thế đã làm hoạt động sản xuất bị đình trệ, nhiều người đi
phu do không chịu nổi điều kiện sống khắc nghiệt nên họ bị nhiễm bệnh, bị thú dữ
ăn thịt. Không chịu nổi cảnh sống cơ cực này, nhiều người nông dân đã nổi dậy
khởi nghĩa, tiêu biểu là khởi nghĩa của Lê Văn Khôi (1833 – 1835) ở Phiên An;
khởi nghĩa Hà Âm (1839 – 1842), Vĩnh Tế - Ba Xuyên (1841), Trà Vinh (1842)…
Một vấn đề nữa gây ảnh hưởng đến đời sống
của nhân dân Nam Bộ trong thời gian này đó là việc lưu dân người Việt ở Bắc Bộ,
người Chăm ở Trung Bộ và người Khmer, người Hoa tràn vào sinh sống. Tính đến thời
Nguyễn , Nam Bộ là vùng đất được các lưu dân
này khai khẩn gần như hoàn thành. Ở vùng Tây Nam Bộ, người Việt đã khai phá và
lập các làng tại những nơi có đồn an ninh như: Châu Đốc đạo, Tân Châu đạo, Đông
Khẩu Đạo (Sa Đéc)…. Đến thời Tự Đức, họ lập thêm 4 đồn điền (An Võ, An Dõng, An Biên, An Ninh) và hơn 100 làng
khác. Bên cạnh đó, người Hoa và người Thiên Chúa, người Khmer cũng vào khai
hoang, lập nên các làng mạc. Theo sử cũ, người Hoa tập trung nhiều ở Sa Đéc,
Cái Tàu Hạ, Cái Tàu Thượng, Chợ Mới; người Việt theo Thiên Chúa tập trung ở
Long Hưng, Cái Đôi, cù lao Tây, cù lao Giêng….; người Khmer và Chăm thì sống ở
vùng Châu Giang, Cỏ Tầm Bon... Cùng sinh sống chung trên một vùng đất đang khai
phá (Nam Bộ), những lưu dân này (Việt, Hoa, Chăm) ít nhiều có sự giao lưu lẫn
nhau. Bên cạnh mặt tích cực, sự giao tiếp này cũng có nhiều mặt tiêu cực, mặt
không tốt như đe dọa phong tục, nếp sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
khiến những người quan tâm phải lo ngại.
Đó
là hoàn cảnh lịch sử Việt Nam lúc đó, một hoàn cảnh rất đặc biệt tạo điều kiện
cho Đoàn Minh Huyên – một con người từ lâu không tên không tuổi, luôn mai danh
ẩn tích nơi đâu đó không ai biết được – đứng lên làm nhiều việc có lợi để giúp
dân, cứu nước và giúp đời.
Đoàn Minh Huyên (1807 – 1856) sinh ở
làng Tòng Sơn thuộc Cái Tàu Thượng (có tài liệu viết là tổng An Thạnh Thượng), Sa
Đéc[1]
(nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) vào giờ Ngọ ngày rằm
tháng Mười năm Đinh Mão 1807 (chiếu theo Dương lịch hiện nay là ngày
14/11/1807), tức năm Gia Long thứ tám. Về họ tên ông, căn cứ theo các tài liệu
hiện giờ chúng tôi thu thập được thì chúng tôi xác định: từ khi sinh ra ở làng
Tòng Sơn cho đến năm 43 tuổi, ông không
có tên.[2] Người
ta chỉ xác định được họ tên thật của ông vào năm 1849, lúc ông đang trị bệnh
trong nhân dân và tu hành ở chùa Tây An. Theo một số tài liệu chúng tôi thu thập
được, chúng tôi xác định ông có họ là “Đoàn”, tên là “Minh Huyên”. Về họ
“Đoàn”, trong Sấm truyền Đức Phật thầy
Tây An, Nguyễn Văn Hầu viết: “Dòng
họ của Đức Phật Thầy lúc bấy giờ (khoảng năm 1849) chỉ có vài người, nhưng
trong vài người ấy, ông Đoàn Văn
Điểu và ông Đoàn Văn Viên (có người
gọi là Đoàn Văn Thuyên), cũng không nhận diện được Ngài. Ngài phải nói hết căn
cư do lưu lạc, việc tu hành của Ngài như thế nào, thì anh em mới nhìn được nhau”.
Tên “Minh
Huyên” là pháp danh của ông khi thọ
Phật ở chùa Tây An. Mộ bia của ông ở chùa Tây An viết rõ: “Tự Lâm Tế gia chư thiên phổ tam thập bát thê, ỳ thượng Pháp
hạ Tạng tánh Đoàn, pháp danh Minh Huyên đạo hiệu giác linh chi miễn
tọa”. chữ “Minh” không phải tên lót mà là một chữ trong bài kệ của phái Lâm Tế:
“Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên Minh
Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên... (chúng ta lưu ý các chữ trong bài kệ này là
tên dùng để đặt pháp danh cho đệ tử khi họ theo Sư thầy, nhà Phật). Tên “Đoàn Minh Huyên”, chính
là pháp danh của ông khi ông thọ giáo ở chùa Tây An chứ không phải tên thật như
nhiều người lầm tưởng.
Về tuổi thơ của ông, nhiều tài liệu cho
biết ông thuở nhỏ đã sống với song thân (hiện chưa rõ lai lịch[3])
và hai người anh chú bác là Đoàn Văn Điểu và Đoàn Văn Viên ở
quê nhà. Khi cha mất, người chú/bác (?) đã chiếm đoạt tài sản trong gia đình và
đuổi hai mẹ con ông ra khỏi nhà. Vì không đủ tiền sinh sống, mẹ ông phải bán trầu nuôi bản thân
và con mình cho đến khi bà qua đời. Mộ của bà hiện ở Cái Nai (cách Tòng Sơn
3000 thước), không bia mộ và mộ này có đặc điểm khá lạ: cứ mỗi năm nước dâng
lên cao thì mộ tự động cao lên dù không ai bồi đắp lên bao giờ nên mộ không bao
giờ ngập úng; điều kỳ lạ hơn nữa là ở mộ đó, cỏ không mọc được và trâu bò cũng
không dám đi vào phá hoại, điều đó nói lên sự “thần thánh hóa” ngôi mộ, mộ được
thần linh bảo vệ để chống lại thiên nhiên khắc nghiệt”. Người đời sau gọi mộ
này là mộ Phật Mẫu với hàm ý tôn
kính, trọng thân mẫu của Phật Thầy (về sau thì lập đền thờ).
Về phần mình thì sau khi
mẹ mất, ông đi đâu và làm gì hiện cũng chưa được rõ. Căn cứ theo lời của các bô
lão trong làng khi xưa ông đã sống thì sau khi mẹ mất, ông đã bỏ nhà ra đi lúc
tuổi còn rất nhỏ (8 – 10 tuổi) và đi đến một nơi thật xa. Nhưng ông đã đi đâu
và làm gì thì không ai được biết rõ. Song, căn cứ vào những lời sấm giảng thì
trước khi trở về Tòng Sơn (năm 1849) thì ông đã ra đi và gần như chu du khắp
vùng Nam Kỳ lục tỉnh: đến Gò Công năm 1844, rồi sang Mỏ Cày, Bến Tre, Cần
Chông, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Thất Sơn…. và cả vùng Gia Định
(thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Chùa Long Thạnh ở địa chỉ số 3/265, tỉnh lộ
10, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh tương truyền là nơi cụ
(tức Đoàn Minh Huyên) thường đến và có quan hệ mật thiết với các thiền sư ở
đây.
Năm 43 tuổi (1849), nhiều
nơi trong nước bị dịch tả hoành hành dữ dội, hễ ai mắc bệnh là chết, thầy thuốc
vô phương cứu chữa. Theo thống kê, vào năm 1849 – 1850, cả nước có 58 vạn người
chết vì dịch tả. Họ sống trong lo âu “hôm nay mình liệm người, chẳng biết ngày
mai có ai tẩm liệm mình không”. Giảng xưa:
Tháng Tám ôn dịch rất
nhiều
Thiệt năm Kỷ Dậu dương
trần liêu điêu.
Biết được tin xấu này,
ông lập tức trở về quê nhà ở Tòng Sơn (đầu năm 1849) để nghĩ cách cứu dân.
Tương truyền ông đã tạm trú sau hè đình làng, thay đổi trạng thái: không làm
ăn, nói năng hư hư thực thực, làm người không bình thường… cốt gây sự chú ý của
dân làng; nhưng hành động cứu dân của ông chẳng những không được dân chúng Tòng
Sơn hoan nghênh mà họ còn tìm cách xua đuổi ông ra khỏi làng. Bất mãn, ông chèo
xuồng ra ra đi đến nơi khác trị bệnh ở vùng Trà
Bư, Xẻo Môn (cách Cái Tàu Thượng khỏang 7, 8 km), rạch Dứa (Tân Phước), Mỹ Hưng
(khỏang đầu cù lao Giêng), Cái Tre (ven Đồng Tháp Mười)... rồi đến đình làng
Kiến Thạnh (xưa thuộc làng Long Kiến; nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang). Ở đình làng Kiến Thạnh, ông bí mật ngồi trên bàn thờ Thần của
đình. Một buổi sớm tinh sương, khi ông từ cửa đình theo thường lệ phải vào quét
dọn đình thì ông từ bất ngờ thấy một người đang ngồi thiền trên bàn thờ. Bất
giác, ông từ toan đi báo cho dân biết nhưng người đó ngăn lại và người đó (đang
ngồi thiền) tự xưng là Phật Thầy, tình nguyện chữa bệnh cho dân. Sẵn có con ông
Cả bị táo bón (ỉa mửa), ông đã chữa hết bệnh luôn. Tiếng lành đồn xa, nhiều
người dân khắp nơi ùn ùn kéo đến xin ông trị bệnh. Một điểm đặc biệt trong việc
chữa bệnh của ông đó là ông dùng toàn là nước lã, bao nhang, giấy vàng… trị
bệnh (khác với những nhà y học trước kia – sẽ nói rõ ở phần sau). Ở đình được 3
hôm, ông dời về cốc ông đạo Kiến (nền chùa Tây An xưa) tiếp tục trị bệnh. Tháng
9/1849, dịch tả lại một lần nữa hoành hành ở An Giang, riêng quê ông là Tòng
Sơn thì nó diễn ra mạnh nhất: nhiều người bệnh, nhiều người chết không kịp chôn
cất tử tế. Để cứu dân, ông cùng với các đệ tử (Trần Văn Thành, Đình Tây, Đạo
Ngoạn…) đã đi khắp nơi để chữa bệnh, chia và phát thuốc đều đặn cho nhân dân; đồng
thời dặn người bệnh trước khi uống thuốc phải vái lạy Phật Trời – mong Phật
Trời phù hộ để mau hết bệnh; dặn họ sống ngay thẳng, tu tâm dưỡng tính và đừng
làm điều giả dối. Danh tiếng ông ngày càng vang dội, rất nhiều người đã đến trị
bệnh và xin quy y; dưới sông đông nghẹt xuồng ghe, trên bộ người lui kẻ tới tấp
nập. Và cũng chính vào năm này (1849), ông chính thức khai sinh ra đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương với phương pháp hành đạo rất đơn giản.
Chính sự tập trung đông đảo thời kỳ này đã
làm chính quyền An Giang thời ấy, đứng đầu là tổng đốc An Giang Doãn Uẩn (1847
– 1850) nghi ngờ ông là gian đạo sĩ, tập hợp dân lại để chuẩn bị làm loạn nên
vào khoảng cuối năm 1849 đã cho quân lính bắt ông đưa về Châu Đốc câu lưu để
điều tra. Sau một thời gian tra xét và thử thách… bằng nhiều cách, thấy không
đủ chứng cứ để buộc tội, chính quyền buộc phải thả ông ra. Tuy nhiên để tiện
kiểm soát hoạt động của ông, chính quyền đã cho người đưa ông vào tu hành ở chùa Tây An do thiền sư phái Lâm Tế là
Tiên Giác – Hải Tịnh (1847 – 1875) quản lý. Tại chùa, ông được sư Tiên Giác cho
quy y Phật giáo; lúc đó ông lấy pháp danh là Minh Huyên và đạo hiệu là Pháp Tạng. Nghe tin ông đã đến quy y ở
chùa Tây An, người dân đến trị bệnh, nghe thuyết giảng Phật pháp, quy y ngày
càng nhiều. Ông cũng thu nhận nhiều đệ tử có tài đức cao, uy tín lớn trong trị
bệnh, cứu dân như Quản Thành (Trần Văn Thành), Đình Tây (Bùi Văn Tây), Tăng chủ
(Bùi Văn Thân), Đạo Ngoạn (Đặng Văn Ngoạn), Đạo Lập, Đạo Xuyến… ; và trong số
đó, nhiều người do xem cụ là “Phật sống” nên gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.
Tương truyền trong cuộc đời hoạt động của mình, ông có viết 4 quyển kinh, kệ là:
Chuẩn đề chú; Thái dương kinh; Khai kinh kệ; Thái âm
kinh.
Mặc
dù bị chính quyền quản thúc chặt chẽ, nhưng ông vẫn tiếp tục đi khắp nơi để trị
bệnh và truyền bá tín điều tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương mà ông khai sáng vào năm 1849.
Một hoạt động nổi bật trong cuộc đời Đoàn Minh Huyên, ông không chỉ là người
trị bệnh cho dân, mà ông còn kêu gọi nhân dân khai hoang dẫn tới hình thành 4
dinh điền lớn (ông gọi là “trại ruộng”) là Đồng Tháp Mười, Thới Sơn (Tịnh
Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều thuộc huyện Châu Phú). Ông mất ngày 10/9/1856 (nhằm
ngày 12/8 âm lịch) tại chùa Tây An. Mộ của ông ở phía sau chùa Tây An, không
đắp nấm như lời dặn của ông. Hằng năm cứ đến ngày giỗ (12/8 âm lịch) của ông,
các tín đồ (khoảng 3 vạn người) viếng thăm và phúng điếu ông tại chùa Thới Sơn,
cúng bái tại trại ruộng Thới Sơn là nơi mà ông cùng 2 đại đệ tử là Tăng chủ và
Đình Tây có công khai phá.
2.
Những đóng góp của Phật
Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên trong việc trị bệnh và khai phá, lập làng ở vùng đất
An Giang xưa
2.1. Trong
việc trị bệnh
Về hoạt động trị bệnh thì có thể nói, Đoàn
Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) là một thầy thuốc, danh y xuất sắc của nhân dân tỉnh
An Giang. Vào thế kỷ XIX, vùng đất Nam Bộ tuy đã được lưu dân người Việt khai
phá và tạo dựng các làng mạc khá nhiều, nhưng do vùng này còn rất hoang sơ, khí
hậu nóng bức, ẩm thấp đã tạo điều kiện phát sinh các bệnh được coi như thảm họa
của người dân Nam Bộ thời đó là bệnh thời khí, bệnh tâm thần và đặc biệt là bệnh
tả. Theo những thống kê không chính thức thì trong những năm đầu thời Nguyễn
(thế kỷ XIX), đã có hàng chục nghìn người chết vì đại dịch này và nó đã làm các
thầy thuốc nước ta khi chữa trị cho người bị bệnh tả thời đó phải bó tay vì
không tìm ra nguyên nhân, không tìm ra được cách chữa trị phù hợp. Trong hoàn cảnh
đầy khó khăn này, Phật Thầy Tây An – một con người tài phép của An Giang xuất
hiện. Sau một thời gian đi xa về, ông rút vào sau đình Kiến Thạnh để hành động
bất thường: không làm ăn, nói năng hư hư thực thực, làm người không bình thường…
(chúng ta hiểu là ông đang bị khùng
lên – MQ chú), và một thời gian sau thì ông tự tuyên bố mình đã có “phép thuật”,
tự xưng là Phật Thầy và tình nguyện trị bệnh cho dân. Hành động không bình thường
của ông đang làm đau đầu nhiều nhà khoa học, khi họ muốn tìm hiểu về khả năng
và sức mạnh tiềm ẩn của con người.
Khi trị bệnh, ông đã tiến
hành bốc thuốc và thực hành các phương cách để trị bệnh cho người dân bị bệnh. Về
bốc thuốc trị bệnh thì ông tiến hành rất lạ: nước lã (chắc là nước lạnh), giấy vàng, bao nhang để trị bệnh. Việc ông dùng nước lã trị
bệnh thì cũng có nguyên do của nó. Thứ
nhất, nước lã trong Đông y là phương thuốc chữa trị bệnh hữu hiệu (chữa được khoảng
50 loại bệnh khác nhau); Thứ hai là
ông dùng nước làm thuốc là làm bớt gánh nặng chi phí mua thuốc của người dân
lúc đó. Người dân Nam Bộ còn nghèo, chi phí thuốc lại đắt đỏ nên hầu hết họ
không đủ tiền để mua nên họ chỉ mua những gì hợp túi tiền mà lại rẻ (thuốc thì
chuộng cái rẻ). Đánh trúng tâm lý người dân chuộng rẻ, mặt khác ông rất thông cảm
đời sống còn khó khăn của người nông dân nên ông bốc và phát thuốc miễn phí mà
không lấy tiền của dân. Thứ ba là thứ
thuốc “nước” này có thể tìm thấy khắp mọi nơi trên vùng sông nước Cửu Long rộng
lớn. Người ta lấy nước, đem cúng theo lời Phật Thầy là chữa bệnh được. Đoàn
Minh Huyên dùng nước lã (lấy từ nước sông, nước mưa, nước giếng…) đổ vào trong
những chum nước nhỏ, đặt vào bàn thờ Thần ở trong cốc ông đạo Kiến rồi cúng bái
để trừ mọi bệnh tật, làm người dân
hoàn toàn khỏe mạnh. Tiếng lành đồn xa, nghe tin Phật Thầy có tài chữa hết bệnh
cho dân nên nhiều người từ khắp nơi kéo về cốc ông đạo Kiến ở An Giang xin ông
chữa bệnh. Họ đến nườm nượp, chen chúc nhau tạo nên quang cảnh náo nhiệt:
Dầm trời thiên hạ như mưa,
Ban mai đến tối phát chưa rồi bùa.
Người đi tới trước vô chùa,
Mấy người tới trễ lạy đùa ngoài sân.
Kẻ lui người tới rần rần…
Họ nườm nượp kéo đến chỗ
ông như là đang đi xem hội, nhang khói xông lên nghi ngút. Họ đến xin liên tục làm ông không kịp
làm thuốc, phát thuốc (vì quá nhiều làm không xuể); thấy thế nhiều người đã tình
nguyện thay ông phát thuốc cho người bệnh. Phật Thầy sử dụng nước lã, tro nhang
phát cho người bệnh. Khi tro nhang đã sắp hết, ông lấy giấy vàng rồi xé nhỏ
thành từng mảnh nhỏ cỡ chừng 1 ngón tay; có khi lấy luôn cây ngũ sắc chặt làm
thuốc chữa bệnh luôn. Cách trị bệnh của ông rất thần diệu:
Phù linh hay tợ thuốc Tiên,
Bịnh chi Thầy cũng độ yên muôn ngàn.
Hết phù Thầy bước lại bàn,
Thỉnh bông cúng Phật chưng nhang âm phù.
Bệnh gì cũng vậy, ông chỉ cho người bệnh
uống phù (không rõ là gì, chắc là nước cúng – nước phép), chưng nhang và hoa
tươi cúng Phật, thế là hết bệnh. Đối với bệnh tà ma (bệnh chướng khí) thì ông
cũng trị như thế: chưng nhang, cúng và cho người bệnh uống nước phép để giải
trừ yêu ma. Và mỗi lần phát thuốc chữa bệnh, Phật Thầy đều làm phép cúng bái, bùa chú theo kiểu của Shaman giáo (lên đồng, bói toán, trừ ma quỷ…) với
bệnh nhân để giúp họ hết bệnh tật. Và một điều đặc biệt là khi chữa bệnh, ông
cho phép bệnh nhân đứng bất cứ nơi đâu nhưng
không được đứng trước mặt ông. Có lẽ vì quy định này mà nhiều người bệnh
đứng sau lưng cho ông chữa. Khi ông bắt đầu chữa bệnh, ông đã đoán bệnh tình
của bệnh nhân (suyển, ho, cổ-xạ[4] (?), thổ
huyết….) rồi mới chữa bệnh.
Nhưng mỗi khi chữa bệnh
nào, ông (Đoàn Minh Huyên) luôn căn dặn người bệnh phải sửa chữa tính tình và
biết điều nhân nghĩa (ngay thẳng), ngay thảo mẹ cha và kính thờ Trời Phật. Sở
dĩ ông làm điều này vì người dân bấy lâu nay sống mê muội, tham dục và tin vào
những điều mê tín dị đoan nên sợ chết chóc, sợ tai ương. Nhận thức điều này,
Phật Thầy không thể dùng giáo lý của Phật để thu phục mà lợi dụng lòng tin của
người dân vào điều lạ (thần bí) dẫn dắt họ rời khỏi nơi tà tưởng về nơi chính
tín. Họ (người dân) ngoài đời sống u mê, tham dục nên lúc nào cũng sợ chết. Thế
nên, ai có khả năng cứu họ khỏi sự chết thì dù với điều kiện khó khăn nào họ
cũng ưng thuận. Bệnh thời khí phát sinh, chính là cơ hội để Phật Thầy hóa độ
những người như thế (tham dục, u mê); lợi dụng cái lòng sợ chết mà ông dẫn dắt
họ vào đường đạo hạnh. Tương truyền, khi chữa bệnh xong, ông còn dặn bệnh nhân
về nhà phải lập bàn thờ và năng niệm Phật, thờ kính mẹ cha và tin tưởng Phật, ăn
ở ngay thật. Gặp bệnh nào không trị được thì ông dạy họ luật nhân quả báo ứng.
Dần dần, Phật Thầy chỉnh
đốn cái cốc thành cái chùa và dạy dân nghi thức thờ phụng đơn giản: chưng
nhang, hoa, đèn và nước lã; thờ tấm trần điều (khác hẳn việc thờ phụng nhà chùa
Phật). Chính vì chữa bệnh hay, nhiều người hết bệnh nên người dân tứ xứ nườm
nượp đến xin Thầy chữa bệnh; nhưng cũng chính vì nó (việc chữa bệnh) đã gây họa
cho Thầy. Đầu tiên, việc Phật Thầy tập hợp dân chúng lại để khám bệnh làm chính
quyền sở tại lo ngại rằng, việc tụ tập này tất sẽ gây cuộc bạo loạn chống chính
quyền. Ngoài ra, bọn thầy cúng, lang băm cũng gây họa cho Thầy. Chúng chỉ trích
cách chữa bệnh của Phật Thầy: Đói ăn rau, đau uống thuốc, Đức Phật Thầy chữa bệnh
không dùng thuốc, là một cái nghi. Thầy chùa thì phải đầu tròn áo vuông, Ngài
đầu vẫn búi tóc, cằm vẫn để râu, là hai cái nghi. Lễ Phật thường thì tụng kinh
gõ mõ, giờ sao dạy lâm tâm mặc niệm, không la ó gì, là ba cái nghi. Thờ Phật
lâu nay chỉ thờ tượng cốt, nay lại thờ trần điều, là bốn cái nghi. Cúng Phật
thường cúng chè xôi, lý do gì lại bác bỏ hết mà chỉ cúng hoa tươi nước lã, là
năm cái nghi. Tất cả các nguyên cơ dẫn trên tập hợp lại thành một lưới nghi,
khiến chính quyền kết luận rằng Phật Thầy không phải một nhà tu hành chân
chính, mà là một gian đạo sĩ, chuẩn bị quần chúng để làm một cuộc nội loạn.
Thế là, Phật Thầy bị Tổng
đốc Doãn Uẩn bắt lên Châu Đốc câu lưu. Trong quá trình bị câu lưu, Phật Thầy đã
hùng biện và dùng những huyền diệu của mình để đối phó với các quan chức chính
quyền. Những lời đe dọa, những cuộc thẩm vấn và thử thách gắt gao được đưa ra,
nhưng không hề làm lung lạc ý chí của Phật Thầy. Không lâu sau, người ta phóng
thích Thầy ra. Nhưng, để quản lý và giám sát Phật Thầy được kỹ hơn, họ đưa Phật
Thầy vào tu ở chùa Tây An do Doãn Uẩn
lập nên năm 1847; ở nơi đó Phật Thầy quy y Phật và lấy pháp danh là Đoàn Minh
Huyên, và cũng có lẽ do được nhiều người mến mộ nên khi ông ở chùa Tây An, họ
tôn kính ông là “Phật sống” và đặt danh hiệu là Phật Thầy Tây An. Tuy nhiên, do
muốn tránh sự quản lý gắt gao của chính quyền, ông lén lút đi trị bệnh ở nơi
khác (có thể là sau chùa, hoặc một nơi khác thật xa trên núi Sam mà nơi đó ít
người biết, đó là trại ruộng Thới Sơn) và tiếp tục trị bệnh cho đến khi mất vào
giờ Ngọ ngày 12/8 âm lịch (năm 1856). Mộ Phật Thầy được chôn sau ngôi chùa,
chếch trên núi, dưới tàn cây râm mát.
2.2 Trong việc khai phá,
lập làng ở vùng đất An Giang xưa
Như chúng ta đã biết,
Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên không chỉ có đóng góp trong việc chữa bệnh cho
dân, mà còn có nhiều đóng góp lớn trong việc kêu gọi nhân dân khai hoang, lập
làng trong vùng đất An Giang. Theo ý kiến của chúng tôi, đóng góp lớn nhất của
Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên trong khai hoang, lập làng ở An Giang đó là
ông đã chiêu tập, tổ chức các đoàn khai hoang gồm nhiều người dân dưới sự dẫn
dắt của những đệ tử thân tín đi khai phá các vùng xa xôi, hẻo lánh do Phật Thầy
chỉ định. Tại những nơi đang khai phá, Phật Thầy đã thông qua các đệ tử của
mình để truyền đạt những lời hướng dẫn, những hành động cụ thể cho người dân
khi khai hoang, lập làng ở các vùng đất do Thầy chỉ định; đó là phải chế ngự
thiên tai, thú dữ, thành lập các “trại ruộng” (một hình thức làm ăn tập thể
theo kiểu hợp tác xã nông nghiệp)cho dân sinh sống ổn định, yên tâm sản xuất. Chúng
ta đi sâu vào cụ thể:
Năm 1850 – 1851, để tránh
sự nghi kỵ của chính quyền An Giang (đứng đầu là tổng đốc Cao Hữu Bằng), Phật
Thầy Tây An ra lệnh cho các đệ tử và tín đồ của mình tập trung lại thành nhiều
nhóm đi đến những vùng xa xôi để khai phá đất hoang, thành lập “trại ruộng”.
Tương truyền trong năm đó (1851), Ngài (tức Phật Thầy Tây An) chia các nhóm đệ
tử thành 4 đoàn:
- Đoàn khai hoang thứ nhất do Đình Tây,
Tăng Chủ chỉ huy tiến vào vùng Thất Sơn, bên chân núi Két; lập trại ruộng Hưng
Thới và Xuân Sơn.
- Đoàn khai hoang thứ hai do Ông Quản Thành tức Đạo Thành điều
khiển, tiến về vùng Láng Linh và thành lập trại ruộng Bửu Hương Các.
- Đoàn thứ ba do Đạo Ngoạn (Đặng Văn Ngoạn)
chỉ huy, đến khai phá vùng ven rạch Trà Bông, trong lòng Cần Lố, lạch Ông Bường
ở Đồng Tháp Mười.
- Đoàn thứ tư do Đạo Xuyến (Nguyễn Văn
Xuyến) chỉ huy, tiến vào khai phá vùng Cái Dầu ở hữu ngạn sông Hậu.
Đứng đầu các đoàn khai
phá thời kỳ này là những vị đệ tử thân tín của Phật Thầy, họ có đức độ và đạo
hạnh, nhiều tài năng và phép thuật, nên dễ dẫn dắt người dân đi theo khai phá
và lập làng; trong số đó cần phải kể đến là Đình Tây, Tăng Chủ, Đạo Ngoạn… Để
biết rõ hơn hoạt động khai phá, lập làng của các nhóm khai phá của Phật Thầy cử
đi như thế nào, chúng tôi giới thiệu hoạt động khai phá của Đình Tây, Tăng Chủ
ở Thới Sơn; Quản Thành ở Láng Linh – Bảy Thưa…
Năm 1851, được sự chỉ đạo
của Phật Thầy, hai ông Đình Tây và Tăng Chủ đã dẫn đầu đoàn khai hoang đầu tiên gồm một số tín đồ thân tín
đi khai phá vùng Láng Linh và Thới Sơn, cắm thẻ quanh vùng Thất Sơn. Buổi đầu,
dưới sự hướng dẫn tận tình của hai ông, dân khai hoang đã bắt đầu trồng lúa,
hoa màu ở hai vùng Xuân Sơn và Hưng Thới; về sau gộp lại thành Thới Sơn và
người ta gọi chung là trại ruộng Thới Sơn. Trại ruộng là nơi cung cấp lương
thực cho hàng nghìn gia đình tại đây ăn no, đủ sức sản xuất, chiến đấu chống
lại mãnh thú và quân xâm lược. Tại đây, khách thập phương khi đến tham quan khu
di tích trại ruộng Thới Sơn đều được nghe những người dân ở đây kể về hai đại
đệ tử của Phật Thầy Tây An hơn 100 năm trước là Đình Tây, Tăng Chủ. Hai ông đều
là người có đức lớn, ngoài việc chữa bệnh cứu dân, các ông còn có công trong
việc đánh bại mãnh thú, tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm sản xuất và ổn định
đời sống.
Về ông Đình Tây (Bùi Văn Tây), ông được
nhiều người dân An Giang rất mến mộ là vì có công thu phục ông “Năm Chèo” (cá
sấu 5 chân), trừ họa cho dân. Câu chuyện ông Năm Chèo được truyền miệng khắp
vùng với những tình tiết ly kì. Theo lời kể của bà Hồ Thị Cưng (cháu đời thứ 5
của ông Đình Tây) thì: Tục truyền, một hôm Phật Thầy Tây An sai Đình Tây xuống
vùng Láng Linh để giúp đỡ một sản phụ đỡ đẻ trong lúc ông chồng tên là Xinh đi
bắt rùa rắn. Khi người chồng về, biết ông Đình
giúp đỡ gia đình mình như vậy, bèn tặng ông một con sấu nhỏ rất kỳ lạ. Con sấu
có năm chân, mũi đỏ, da láng chứ không sần sùi như sấu thường. Ông Đình thấy
con sấu này có dạng kỳ lạ, thích thú và anh Xinh đã tặng con sấu này cho ông.
Khi ông Đình Tây mang con sấu về,
Phật Thầy xem qua, bảo là con "nghiệt súc" nên trừ đi, nhưng vì
thương con sấu, ông bèn giấu thầy, đem về trại ruộng Xuân Sơn xích chân nó lại
và nuôi. Được ba năm, con sấu trở nên to lớn, và sau một đêm mưa to gió lớn,
con sấu bò đi mất. Khi Đình Tây lại trại ruộng thì mới biết nó cắn đứt chân bị
xích để trốn mất. Quá lo buồn vì không biết hậu họa như thế nào, ông Đình Tây
bèn thưa chuyện với Phật Thầy. Phật Thầy bèn cho người rèn một lưỡi câu, một
lưỡi mun và hai cây lao có lưỡi nhọn dài chừng năm tấc...rồi giao bốn vật bằng
sắt này và một sợi dây tơ cho Đình Tây cất giữ, phòng con “nghiệt
súc” xuất hiện gieo tại họa cho dân lành.
Rồi một ngày tin dữ lan truyền, “ông
Năm Chèo” xuất hiện tại nơi anh Xinh đã bắt nó năm xưa. Nó tràn lên bắt heo, gà
nuôi của dân, sát hại người dân vô tội và có lúc còn quẫy đuôi mạnh tạo sóng
lớn nhấn chìm ghe xuồng của cư dân qua lại. Biết chuyện, ông xin Phật Thầy cho
diệt trừ con “nghiệt súc”, nhưng khi đến nơi thì sấu lặn mất. Cứ nhiều lần như
thế, khi ông về thì sấu lại nổi lên tàn phá làng xóm. Có người vừa thấy sấu đã
kêu la thất thanh mời ông Đình xuống, thế là sấu lặn mất. Rồi kịp khi ông ra về, thì ít ngày sau nó lại xuất hiện. Ba
lần "cút bắt" như vậy, ông nguyện rằng: Nếu phần số mi phải lọt vào tay ta
hôm nay thì mi cũng nên tuân theo số Trời, để cho ta làm tròn phận sự mà Đức
Phật Thầy đã giao phó; còn như mi chưa tới số, thì mi cũng đừng nên trở lại phá
khuấy dân chúng nữa.[5] Kể từ đó
về sau, người dân không còn thấy “ông Năm Chèo” xuất hiện và món bảo bối của
ông (dùng để diệt sấu) vẫn còn được dân làng cất giữ cho đến ngày hôm nay. Tuy
bị ông Đình Tây khuất phục, nhưng “ông Năm Chèo” có còn danh tiếng rất lớn
ngang bằng ông Đình Tây. Trong “Nửa tháng trong miền Thất Sơn”, GS Nguyễn Văn Hầu cho biết:
“có người nói khi Tây bố (tức vây ráp) binh Gia Nghị (Đạo binh do Quản cơ Trần
Văn Thành chỉ huy kháng Pháp từ 1868 đến 1873), nghĩa quân rút lui nhưng
vì lúa dầy quá thuyền chống không đi, thì ông Năm Chèo xuất hiện làm lúa rạp
một luồng cho thuyền theo đó mà chống. Danh ông Năm Chèo vang dội cũng bằng
danh ông Đình Tây”.
Ngoài biệt tài trị “ông
Năm Chèo”, ông còn biết trị bệnh. Là đệ tử thân tín của Phật Thầy, ông học của
Thầy mình cách phát phù trị bệnh; sáng tạo ra cách cắt nẻ trong trị bệnh. Tương
truyền ông cắt các miểng chén bể và băm vào da thịt người bệnh, và thế là hết
bệnh. Bệnh gì ông cũng chữa lành, riêng những bệnh tà ma mà được đem đến, ông
chỉ cắt cho một người rồi mấy người khác xem thấy phải khiếp sợ, trốn về mà hết
bệnh luôn.
Về ông Tăng Chủ Bùi Văn Thân (có
chỗ ghi là Bùi Văn Thận, Bùi Đình Thân) thì khi dẫn dân đến khai hoang vùng Thới
Sơn, ông cũng có công lớn trong việc trị bệnh, giúp dân làm ruộng đồng để tạo dựng
cuộc sống tốt đẹp cho người dân. Nhiều người dân ở An Giang truyền miệng rằng,
thuở còn ở Thới Sơn, ông Tăng Chủ nhiều lần đánh bại hổ, cọp để trừ hại cho
dân. Tục truyền, ông Tăng võ
nghệ rất giỏi, hình vóc to lớn, miệng rộng tay dài, bàn tay buông xuống chí mày
đầu gối, chân tay mọc lông dầy bịt, tiếng nói sang sảng như sấm mà tâm tính hồn
nhiên, quả quyết. Ông đã làm chúa tể của
chúa sơn lâm ở đây một thời. Một lần cọp về xóm vào chập tối, người người
rút lên gác, đánh mõ tre báo động. Ông Tăng Chủ cầm mác thong đánh cọp. Cọp
nhảy tràn tính phủ mình ông, ông nhanh nhảu ngồi thụp xuống, dựng đứng mác
thong, một tay thủ thế. Cọp né sang một bên, ông Tăng Chủ lập tức đấm lẹ vào
hông nó một quả đấm thôi sơn và thuận chân bồi thêm vào hạ bộ nó một miếng đá
nặng đòn. Cọp rống lên một tiếng vang rừng rồi ngã lăn bất tỉnh. Ông vực cọp
dậy, khuyên bỏ tính hung hăng; nó nghe theo, lẳng lặng rút vào rừng sâu. Ông
Tăng Chủ còn đánh cọp nhiều lần và đều tha chết.
Chuyện còn kể một bữa đi rừng ông Tăng Chủ thấy một con cọp nằm
với dáng khổ sở. Ông Tăng hiểu ý bèn hỏi:
- Chắc ngươi mắc xương đó phải không? Sao không
tới đây cho sớm đặng ta cứu cho mà để đến nổi ốm o quá đỗi như thế này vậy!
Hổ cúi đầu và phục xuống, tỏ ý là lời nói phải.
Ông Tăng bảo:
- Nếu thật mắc xương thì hãy ngay cổ ra, ta trị
cho.
Hổ vâng theo lời dạy. Ông Tăng co tay đấm vào cổ con hổ một cái.
Lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệg văng ra một cục xương rất lớn.
Ông Tăng cười mà bảo:
- Thôi hết rồi, hãy đi đi, từ nay ăn uống nên
cẩn thận hơn, đừng hồ đồ quá ta cứu không kịp thì nguy đa!
Hổ cúi đầu vâng lời rồi lui ra. Hôm sau, hổ bắt một con heo rừng
đem đến dâng cho ông Tăng mà đền ơn cứu bệnh.
Ngoài biệt tài đánh hổ - cọp, ông còn giúp người dân làm ruộng,
khai phá đất đai ở trại ruộng Hưng Thới, Xuân Sơn – nơi ông được Phật Thầy chỉ
định đến khai khai khẩn. Ở trại ruộng Hưng Thới, ông lập chùa Phước Điền làm
nơi để trông nom mấy thửa ruộng của Phật Thầy giao cho tín đồ (người dân) làm. Ông làm việc rất siêng năng, chăm chỉ; bất cứ
việc gì từ nặng nhọc cho đến nhẹ nhàng, đều có tay ông nhúng vào cả. Do đó mà
có sự phật lòng giữa ông Tăng Chủ với ông Cả Lăng (Phạm Văn Lăng).
Theo lời của ông Trần Văn Khánh (gọi là ông Chủ Khánh) hiện giờ đang
làm cố vấn cho Đạo ở làng Thới Sơn kể lại thì một hôm, ông Lăng thấy ông
Tăng vác tre bèn kêu lên nửa đùa nửa thật mà bảo:
- Ông sức lực mạnh mẽ quá mà sao vác ít như thế?
Thôi hãy vào đây nghỉ với tôi, để tôi cho sấp nhỏ nó vác cũng xong!
Ông Tăng tuy ngoài miệng không nói năng chi chứ trong bụng có ý
hơi buồn. Ông buồn dây vì lẽ thấy ông bạn ngồi không lại hay ganh tị với những
công tác đắc lực của mình, chứ không phải buồn vì tiếng nói. Cho nên từ ấy trở
đi, ông xử sự rất dè dặt với ông Lăng.
Năm 1859, nghĩa là sau ngày Đức Phật Thầy mất được 3 năm, ông thấy
dân chúng trong vùng Xuân Sơn đã được trù mật, lại nhân có sự bất đồng ý kiến
với ông Lăng, ông bèn đến lập một ngôi chùa tại làng Xuân Sơn, rồi cùng với ông
Đình Tây về ở; không lâu sau, nơi này đổi thành đình Thới Sơn để thờ vị thần chủ quản vùng đất mà họ tới khai phá. Ban
đầu đình được xây cất bằng cây rừng, mái tranh, vách lá, nền đất. Năm 1945,
đình bị quân Pháp đốt; mãi đến năm 1956 mới được người dân dựng lại với khung
sườn bằng gỗ, lợp ngói, nhưng lại bị bom đánh sập. Thời kháng Pháp – Mỹ, đình
là nơi nhiều cán bộ cách mạng đến cư trú, làm việc và chiến đấu. Sau năm 1975,
đình được sửa sang và tôn tạo, hình thành cấu trúc bề thế như hiện nay. Tháng
8/1999, đình được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận là Di tích lịch sử
cách mạng.
Còn ông Đức Cố quản Trần Văn Thành (1820 (?)[6]
– 1873) đại đệ tử đầu tiên của Phật Thầy cũng có công lớn trong trị bệnh và
khai hoang, lập làng ở vùng Láng Linh – Bảy Thưa, nơi ông cùng đoàn khai hoang
đầu tiên được Đức Phật Thầy giao phó tới vùng đất này. Hiện chưa có một tài liệu
nào viết một cách đầy đủ và chi tiết về hoạt động của ông ở vùng Láng Linh,
nhưng căn cứ vào lời kể của nhiều người dân ở vùng Láng Linh thì chính ông Cố
quản đã thừa lệnh của Phật Thầy kêu gọi dân khai hoang đi mở đất, lập làng để
canh tác và sản xuất. Theo ông Nguyễn Văn Sanh, thư ký thường trực bảo vệ dinh
Đức Cố quản (nay nằm trên đường Lộ tẻ Tri Tôn, ấp Vĩnh Quới, xã Vĩnh An, huyện
Châu Thành, An Giang) thì khi đến vùng Láng Linh thì nơi đây (tức Láng Linh)
xưa kia là vùng rừng rậm hoang vu, sình lầy và mọc toàn cây Bảy thưa[7].
Dựa vào vùng lau sậy chằng chịt, Đức Cố quản chiêu tập dân xây dựng các dinh điền
(hay đồn điền) ở Bảy Thưa, Sơn Trung, Lương (nay gọi là dinh Đá Nổi). Tương
truyền khi đang thành lập “trại ruộng”, Đức Cố quản tuân theo ý chỉ của Thầy
mình mà đã nhổ bỏ bia đá của Mạc Thiên Tích lập ở làng Bà Bài (năm Càn Long thứ
57) mà dùng cây lào táo (có chỗ ghi tào láo; một loại gỗ chắc) làm thành 4 cây “thẻ”
cắm ở 4 hướng khác nhau:
- Cây thẻ số 1 là
“Đông Phương Thanh Đế”, cắm ở làng Vĩnh Hanh huyện Châu Thành (ngày nay còn di
tích là dinh Ông Thẻ).
- Cây thẻ số 2 là “Bắc Phương Hắc Đế”, cắm ở xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú.
- Cây thẻ số 3 là
“Tây Phương Bạch Đế”, cắm ở làng Bà Bài xã Vĩnh Tế cạnh chùa Bồng Lai.
- Cây thứ tư
là “Nam Phương Xích Đế”, cắm tại Giồng Cát ( thuộc rừng Tràm ).
Riêng cây thẻ Trung ương Huỳnh Đế được làm
bằng đá đặt tại núi Cấm, xã Văn Giáo huyện Tịnh Biên. Theo nhận định của nhà nghiên cứu Nam Bộ Nguyễn Hữu Hiệp, việc cắm thẻ ở
các nơi khắp vùng Thất Sơn (hay Thới Sơn) đều mang ý nghĩa là cột mốc bảo vệ chủ
quyền; ngăn chặn kẻ gian xâm lấn đất mình khai phá (không trừ ma quỷ). Đồng thời,
việc cắm thẻ còn mang hàm ý thể hiện sự thống nhất đất nước, thời thế thanh
bình.
Khi quân Pháp xâm
lược 3 tỉnh miền Tây, trong đó có An Giang (tháng 6/1867) thì tổng đốc An Giang
lúc đó là Phan Khắc Thận theo lệnh Tự Đức ký giấy đầu hàng, trao vùng An Giang
cho Pháp (sau đó kêu luôn quan ở 2 tỉnh còn lại giao đất cho Pháp) và kết quả
là cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn (mất đất) trong việc củng
cố lực lượng, liên kết với các cuộc khởi nghĩa khác trong vùng Nam Kỳ lục tỉnh;
đồng thời liên kết với nghĩa quân Pucombo ở Campuchia. Nhận được tin triều đình
cắt An Giang cho giặc, Đức Cố quản rút về vùng Láng Linh, lợi dụng địa thế hiểm
trở để chống giặc.
Theo nghiên cứu của Sơn Nam ,
Phạm Văn Sơn thì: Láng Linh – Bảy Thưa là nơi thuận lợi cho hoạt động của Đức Cố
quản, dần dần thì được ông biến thành mật khu. Khi mật khu phát triển, hương chức
và người dân theo giúp ông ngày một đông. Báo cáo của mật thám Pháp cho biết: “đã
có chiến hào và đồn lũy nhỏ nhằm án ngữ một đồn lớn, phòng tuyến là những bao gạo,
bao muối chồng chất kè cây to, thêm lò đúc súng đạn với gang, sắt từ bên ngoài
đưa vào”. Về số quân của ông ở mật
khu thì theo tờ trình của Chủ hạt Long Xuyên Emile Puech (6/1871 – 4/1873) gửi
Thống đốc Nam Kỳ Dupré là 1.200 quân (lúc càn quét Hưng Trung thì Chủ hạt Long
Xuyên Puech đoán là 400 – 500 người). Nghĩa quân Bảy Thưa đánh thắng quân Pháp
nhiều trận, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn. Bị thất bại liên tiếp, quân
Pháp chuẩn bị lực lượng và vào những năm 1871 – 1873 thì phản công. Quân Pháp tấn
công các đồn như: đồn Hờ (rạch Cái Dầu), đồn Cái Môn; vào rạch Mạc Cần Dưng tiến
đến bao vây căn cứ. Nghĩa quân Đức Cố quản chống trả mạnh mẽ, nhưng vì hỏa lực
mạnh của quân Pháp nên nghĩa quân bị đánh tan (19/3/1873). Khởi nghĩa thất bại,
Đức Cố quản qua đời trong căn cứ (có tài liệu ghi là ông mất tích).
Sau khi Đức Cố quản qua đời, con ông là Cậu Hai
Trần Văn Nhu (1847 – 1914) – còn gọi là Cậu Hai Nhà Láng, tiếp tục sự nghiệp
khai phá vùng Láng Linh mà cha để lại. Năm 1897, ông thành lập Bửu Hương tự
(ngay tại căn cứ khởi nghĩa của cha ông) để tưởng nhớ cha và các nghĩa sĩ hi
sinh trong cuộc khởi nghĩa, tận dụng nơi này để trị bệnh và thu phục tín đồ.
Năm 1913, một sự kiện bất ngờ xảy ra ở Bửu Hương tự: một người cháu của Cậu Hai
là Sáu Phẩm vì ghen tỵ ông (tức Cậu Hai) nên mật báo chính quyền Pháp ở Châu Đốc
nói ông có mưu đồ phản loạn. Nhận được tin cấp báo, chủ tỉnh Châu Đốc là Louis
de Matra cùng hàng chục lính Pháp (không rõ bao nhiêu tên) ập vào Bửu Hương tự
bắt 83 người, riêng Cậu Hai trốn thoát được. Bia tưởng niệm ở Bửu Hương tự ghi
rõ: “Vào ngày 21-22 tháng 2 âm lịch năm 1913,
trong lúc tín đồ cùng nhân dân đang làm lễ tưởng niệm lãnh tụ thì quân Pháp đến
bắt giam 83 người. Sau khi kêu án, 76 người bị 2 năm tù giam ở Châu Đốc, 7 người
bị 3 năm tù giam ngoài Côn Đảo.”. Về
sau, ông mất vào năm 1914 sau khi đã dỡ bỏ Bửu Hương tự đi. Về sau, con (và hậu
duệ) của ông đã xây dựng lại (1922) và trùng tu bề thế cho đến ngày hôm nay.
Sau Đức Cố quản, vẫn còn rất nhiều đệ tử của Đức
Phật Thầy có công rất lớn trong việc khai hoang đất đai ở vùng An Giang xưa (Đạo
Ngoạn, Đạo Xuyến, Đạo Lập…) mà trong khuôn khổ bài viết hội thảo, chúng tôi
không thể đề cập hết được những công lao to lớn của các vị ấy. Tuy nhiên, những
hoạt động của các tín đồ Phật Thầy trong việc khai phá và lập làng ở An Giang đã
khẳng định chắc chắn một phần nào những đóng góp quan trọng của Đức Phật Thầy
Tây An – người con “đặc biệt” mà nhân dân An Giang hằng quý mến và kính trọng –
đối với việc khai hoang, lập làng ở An Giang xưa. Hình thức “trại ruộng”, hình
thành trong hoạt động khai phá của ông (thông qua các đệ tử thân tín), chính là
nét rất đặc biệt và cũng là quan trọng nhất của ông trong công cuộc khai phá, mở
rộng vùng đất An Giang xưa. Thông qua “trại ruộng”, ông góp phần giúp cho người
dân Nam Bộ thuở mở đất khai hoang phải biết chế ngự những khó khăn do thiên
tai, thú dữ đe dọa; đồng thời tổ chức cho người dân biết làm ruộng, trồng hoa
màu, lập lại cấu trúc làng xã Nam Bộ ở An Giang với những luật lệ rất cởi mở
(không hoặc ít khi cấm cản họ), khuyến khích họ khai hoang; và đồng thời cũng lợi
dụng hoạt động lập làng này để tuyên truyền, giáo dục họ lối sống, cách ăn ở, đối
nhân xử thế và luật nhân quả… rất phù hợp với tình hình Nam Bộ lúc đó, phù hợp
với những giáo lý – điều răn dạy mà Phật Thầy giảng dạy cho các tín đồ khi họ
còn ở vùng Tòng Sơn ngày xưa. Và chúng tôi cũng khẳng định rằng, những đóng góp
của Đức Phật Thầy Tây An đối với vùng đất An Giang xưa sẽ góp phần làm vùng đất
An Giang này ngày càng phát triển và đạt nhiều thành tựu rực rỡ về mọi mặt.
Tóm lại qua bài viết này, tác giả đã khắc họa một
bức tranh khái quát về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những đóng góp quan trọng của
ông trong việc trị bệnh, khai hoang và lập làng ở vùng đất An Giang. Mong rằng
thông qua bài viết này, giới trẻ An Giang sẽ có cái nhìn bao quát và toàn diện
hơn về Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên – người có công lao lớn trong việc xây
dựng và phát triển vùng đất An Giang tươi đẹp; qua đó thức tỉnh giới trẻ cố gắng
học tập để sau này về quê hương An Giang, xây dựng nơi đây thành nơi giàu đẹp.
Tài liệu tham khảo:
1. Phan An
(2010), “Người Việt Nam Bộ từ góc nhìn tôn giáo”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 311.
2. Nguyễn
Đình Đầu (1994), Tổng Kết Nghiên Cứu Địa
Bạ Nam
Kỳ Lục tỉnh, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Văn Hầu (1970), “Sự thôn thuộc và khai
thác Đất Tầm Phong Long”, Tập san Sử địa, số 19, 20.
4. Nguyễn
Văn Hầu; Dật Sĩ (1972), Thất Sơn mầu nhiệm,
NXB Từ Tâm, Sài Gòn.
5. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền Đức Phật Thầy Tây An, Sài gòn.
6. Nguyễn Văn Hầu (2006), Nửa tháng trong miền Thất Sơn, NXB Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Hữu Hiếu (1997), Nam Kỳ cố sự (chuyện kể Nam Bộ), NXB Đồng
Tháp.
8. Vương
Kim, Đào Hưng (1953), Đức Phật Thầy Tây
An, NXB Long Hoa, Sài Gòn.
9. Huỳnh Lứa
(1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ,
NXB Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn
Long Thành Nam
(1991), Phật giáo Hòa Hảo trong lòng lịch
sử dân tộc, NXB Đuốc từ bi.
11. Sơn Nam
(1988), Lịch sử An Giang, NXB Tổng hợp
An Giang, An Giang.
12. Nhiều người soạn (2007), Địa chí An Giang, Tập 2, NXB UBND tỉnh An Giang, An Giang.
13. Lương
Ninh (2000), Lịch sử Việt Nam giản
yếu, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Võ
Thành Phương (2004), Tìm hiểu An Giang
xưa, NXB Văn nghệ An Giang, An Giang.
15. Quốc sử
quán (1960), Đại Nam
thực lục chính biên, tập 38, NXB Viện Sử học, Hà Nội.
16. Phạm
Văn Sơn (1962), Việt sử tân biên, quyển
5 – tập thượng, tác giả tự xuất bản, Sài Gòn.
[1] Sa Đéc thời Đoàn Minh Huyên ra đời thuộc
Đông Khẩu đạo, thành lập năm 1757 thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Thời Minh Mạng,
Sa Đéc thuộc phủ Tân Thành của tỉnh An Giang; đến năm 1899 là tỉnh thuộc
Pháp.
[2] Đây là thông tin được khẳng định trên cơ
sở phân tích sử liệu chứ chưa được các tài liệu chính thống ghi lại một cách rõ
ràng. Hiện giờ tên của ông (lúc ra đời đến 43 tuổi) chưa thật rõ. Có tài liệu
ghi ông có nhiều tên khác: Lê Hướng Thiện, Đoàn Văn Huyên…; vậy phải chăng những
tên này được song thân đặt khi ông được sinh ra, hay ông đắc đạo Phật lúc 43 tuổi ? Riêng cư sĩ Spolieu thì
dựa vào “Kim cổ kỳ quan” của Nguyễn Văn Thới và cho rằng ông tên là Nguyễn
Quang Mục (có lẽ là tên khai sinh ?), con của Quang Trung – Ngọc Hân; cái tên
Đoàn Minh Huyên là để che mắt nhà Nguyễn. Chúng tôi nêu vấn đề ở đây mang tính
tham khảo, mong các nhà nghiên cứu, nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ vấn
đề này.
[3] Vương Kim, Đào Hưng trong Phật Thầy Tây An ghi là cha ông làm chức quan cao cấp dưới triều
Gia Long; một số tài liệu khác viết là song thân của ông làm ruộng (?). Xin ghi
lại đây để tham khảo.
[4] Hiện chưa
rõ “cổ-xạ” là loại bệnh gì.
[5] Võ
Thành Phương trong “Tìm hiểu An Giang xưa”, viết lại lời của ông Đình Tây với
“ông Năm Chèo” hơi khác: “Nếu sấu thần
chưa tới số, thì đừng phá hoại xóm làng, còn như nay căn đã hết, thì hãy sớm
chịu oai trời, đừng để phải phiền ta”. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[6] Về năm sinh của Đức Cố quản thì hiện giờ
chưa được rõ. Nguyễn Văn Hầu trong Đức Cố
quản hay cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa viết là khoảng từ năm 1818 đến 1821; Nguyễn
Thị Hoàng Phương trong bài viết ở kỷ yếu Hội thảo cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa và lễ hội văn hóa truyền thống
huyện Châu Phú viết là năm 1817; Hỏi đáp lịch sử Việt
Nam, tập 4 viết là năm 1820. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[7] Sở dĩ gọi
là vùng Bảy Thưa là vì nơi ấy mọc
khá nhiều cây bảy thưa (gọi khác là “trát thưa”, “cây thưa”). Giống cây này giờ
đây đã dần mất bóng, ngay tại dinh Sơn Trung chỉ còn 3 bụi cây non nhỏ nhoi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét