40 năm quan
hệ chính trị, ngoại giao Việt – Nhật (1973 – 2013): thành tựu và triển vọng
Việt Nam
và Nhật Bản từ lâu đã có mối quan hệ chính trị, ngoại giao từ lâu đời và cho
đến hiện nay thì đã phát triển mối quan hệ đó một cách tốt đẹp. Nhân dịp kỷ
niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt – Nhật (1973 – 2013), bài viết này muốn giới
thiệu khái quát về quá trình thiết lập quan hệ Việt – Nhật trên lĩnh vực chính
trị và ngoại giao, những thành tựu tiêu biểu và triển vọng của mối quan hệ này
trong tình hình hiện nay.
1. Sơ lược
quan hệ Việt – Nhật: lịch sử và thành tựu
Nhật Bản có quan hệ với Việt Nam từ lâu đời. Vào thời hậu kỳ Đá
mới, những người Nhật cổ (gốc là Mongoloid phương Bắc) có quan hệ với cư dân ở
miền Bắc Lào, Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc [3, 446]. Vào thế kỷ VII
(thời Bắc thuộc Việt Nam), hai nhà sư là Bodaisenna (Balamon) và Phật Triết
(Việt Nam sang Nhật Bản (736), một nhà sư Việt Nam sang dự lễ khai trương tượng
Phật khổng lồ ở chùa Todaiji (752), Triều Hành (Abe no Nakamaro) thừa lệnh vua Đường
sang làm Tiết độ sứ ở An Nam đô hộ phủ (761 – 767). Thời độc lập – tự chủ, đế
quốc Mông – Nguyên hùng mạnh đã xâm lược các nước xung quanh, trong đó có Nhật
Bản và Đại Việt. Thất bại trong việc xâm lược Nhật Bản (1274, 1281), quân giặc
chuyển hướng tấn công sang Giao Chỉ (tức Đại Việt) [16, 248 – 249] để trả hận
cho lần thất bại đầu tiên (1258). Nước Nhật Bản do chịu ảnh hưởng gián tiếp từ
cuộc chiến này nên nhiều người Nhật đã ngầm ủng hộ, mong quân dân Đại Việt sớm
đánh bại quân giặc và giành độc lập cho đất nước mình.
Đến thế kỷ XV – XVI, quan hệ Việt – Nhật có bước khởi
sắc mới, Trong khi nước Nhật Bản đang lâm vào thời kỳ nội chiến giữa Mạc phủ và
các phe phái thì Vua của vương quốc Ryukyu (Lưu Cầu) ở ngoài khơi lãnh thổ Nhật
vào năm 1509 đã phái sứ giả sang Việt Nam đặt quan hệ buôn bán. Đến thế kỷ XVI
– XVII, trong khi Nhật Bản bắt đầu xu hướng thống nhất thành một lãnh thổ chung
dưới thời Tokugawa (1582 – 1603) thì chúa Nguyễn, vì muốn củng cố giang sơn
(Đàng Trong) của riêng mình đã đặt quan hệ với Nhật Bản. Năm 1601, nhân sự việc
Hiển Quý (Akitaka) sang buôn bán ở Đàng Trong, chúa Nguyễn đặt quan hệ ngoại
giao với Nhật Bản. Sau khi thành lập Mạc phủ Tokugawa vào năm 1603, chính quyền
Nhật Bản ra đời chế độ Châu ấn thuyền
(Shuinsen) – khai thông quan hệ giữa Nhật với các nước xung quanh, nhất là Đại
Việt. Từ năm 1604 – 1634, chính quyền Nhật đã trả lời 56 bức thư ngoại giao của
Đại Việt với Nhật [11, 123], cấp 121/365 giấy phép cho thương nhân Nhật sang
buôn bán ở Việt Nam .
Theo thống kê, số thuyền Châu ấn của Nhật Bản sang Đại Việt là 130 chiếc (Đàng Ngoài 51 chiếc, Đàng Trong 79 chiếc). Ý thức
được những ảnh hưởng tích cực trong quan hệ thương mại Việt – Nhật, các chúa
Nguyễn không ngửng tạo điều kiện, quan hệ tốt với Nhật Bản. Chẳng hạn, chúa Nguyễn
cho phép người Nhật được buôn bán ở Đàng Trong với mức thuế ưu đãi, cho phép
người Nhật mở phố xá, xây các công trình kiến trúc bề thế như Chùa Cầu, chùa
Tam Thai…; nhận thương nhân H. Yabeiji làm
con nuôi; ban quốc tính cho thương nhân Araki Sotaro (chồng của công chúa Ngọc
Vạn). Nhưng về sau do sự nổi lên của Hà Lan vả Anh, Pháp, Mạc phủ ban hành sắc
lệnh Sakoku (Tỏa quốc) cấm người Nhật
buôn bán với bên ngoài. Do sự cứng rắn của sắc lệnh này, nhiều người Nhật đã
rời khỏi Hội An (Đại Việt) về Nhật Bản. Theo ghi nhận của D. Haven (Hà Lan)
thì ở khu phố Nhật ở Hội An chỉ còn 300 người Nhật cư trú trong 60 ngôi nhà đá
chật hẹp, tối tăm. Thế kỷ XVII – XVIII, việc chúa Nguyễn ban hành chính sách
cấm đạo và đặc biệt là chiến tranh Tây Sơn với Trịnh – Nguyễn, Hội An bị tàn
phá nặng nề. Jean Koffler đã viết: “Quân
Trịnh đã tàn phá một thành phố Hội An, làm ngưng trệ mọi hoạt động trong một
thành phố có thể nói là một trung tâm lớn của nền ngoại thương”
[12, 15 – 16].
Đến thời Nguyễn và Pháp thuộc, quan hệ Việt – Nhật
không phát triển. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những karayukisan (gái điếm) và mối lái người Nhật có mặt đầu tiên trên
đất Việt. Về sau, người Nhật di cư vào nhiều và họ lập ra khách sạn, công ty
(1918); năm 1920 – 1921, người Nhật mở lãnh sự quán ở Hải Phòng, Sài Gòn [11,
20]. Năm 1904, Phan Bội Châu do thấy sự cường thịnh của Nhật Bản nên đã phát
động phong trào Đông Du đưa người sang học tập ở Nhật Bản. Từ 1905 – 1908, số
học sinh sang Nhật du học là 200 người. Nhưng hình ảnh này đã sụp đổ khi Nhật
Bản câu kết với Pháp trục xuất du học sinh Việt Nam ra khỏi đất Nhật, phong trào
Đông Du từ đó đã tan rã [17, 50].
Sau khi chiếm Triều Tiên (1910) và đại thắng quân Liên minh (Đức, Áo - Hung
trong Thế chiến thứ nhất (1914 – 1918), Nhật Bản bước vào thời kỳ ổn định và
phồn vinh chưa từng thấy trong suốt thời gian 1921 – 1929. Thế nhưng sau khủng
hoảng kinh tế 1929 – 1933, nước Nhật Bản rơi vào khủng hoảng nặng nề. Để giải
thoát, Nhật Bản đã tiến hành cải cách nhà nước và kinh tế theo hướng phát xít
hóa và kết quả là nước Nhật trở thành quốc gia phát xít rất mạnh. Năm 1940, thủ
tướng Nhật K. Konoe thi hành chính sách “Đại Đông Á” (daitoa kaiho) để mở rộng
chiến tranh xâm lược ra bên ngoài, đưa Nhật trở thành cường quốc đứng đầu thế
giới mà nguyên nhân chính dẫn tới ra đời chính sách này là do Nhật thua kém Mỹ
nhiều mặt, nhất là kinh tế. Theo thống kê của giáo sư Irie Akira, thu nhập bình
quân của người Mỹ là 650 USD (gấp 7 lần Nhật), công nghiệp mạnh gấp 5 lần Nhật
Bản (Mỹ: 35%; Nhật: 7%) [1, 26]. Ở Việt Nam , tháng 9/1940 quân Nhật xâm
lược và cùng Pháp thống trị vùng đất này. Quan hệ Việt – Nhật lúc này là quan
hệ giữa những người bảo vệ nền đôc lập và những kẻ xâm lược. Dưới ách thống trị
của Nhật – Pháp, nhân dân Việt Nam sống rất cực khổ và đã có 2 triệu người chết
đói trong Nạn đói Ất Dậu 1944 – 1945 lịch sử. Trước tình hình
đó, nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống phát xít Nhật không chỉ bảo vệ nền độc
lập của dân tộc, mà còn với tư cách là một dân tộc đứng về phía Đồng minh chống
chủ nghĩa phát xít, điều này là phù hợp với xu thế đúng đắn của lịch sử lúc đó.
Trong thời gian 1945 – 1975, quan hệ
Việt – Nhật rất phức tạp và bị hạn chế nhiều mặt. Trong thời kỳ bị Mỹ chiếm
đóng (1945 – 1951), Nhật Bản không có quan hệ với Việt Nam; chỉ sau khi hiệp
ước San Francisco (8/9/1951) được ký kết, Nhật Bản mới bắt đầu độc lập và có
mối quan hệ với các nước Đông Nam Á. Năm 1952, thủ tướng Nhật Bản là Yoshida đề
ra chính sách “Keizai gaiko” (ngoại giao kinh tế) với mục đích thúc đẩy phát
triển kinh tế, thương mại và buôn bán với các vùng xung quanh… và đặc biệt chú ý phát triển mối liên kết
với các nước Đông Nam Á [15, 40]. Nhưng mãi đến năm 1955, Nhật Bản chỉ quan hệ
và thi hành chính sách bồi thường chiến tranh với Việt Nam Cộng hoà (miền Nam)
mà làm ngơ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính thái độ này của chính phủ Nhật Bản
đã làm chính phủ Hà Nội, Đảng đối lập và nhân dân Nhật phản đối. Họ cho rằng,
Nhật Bản bồi thường chiến tranh cho miền Nam là không công bằng, vì miền Nam ít
chịu thiệt hại nặng hơn miền Bắc; họ phê phán Nhật Bản bồi thường cho miền Nam
là nơi mà sự tàn phá không đáng là bao (họ gọi là “ba con gà nhép”) và yêu cầu
chính phủ phải có trách nhiệm với miền Bắc Việt Nam. Mặc dù bị phản đối kịch
liệt, nhưng chính phủ Nhật của Kishi đã bác bỏ hết. Trong cuộc họp tháng
12/1959, Thượng viện Nhật Bản phê chuẩn thỏa
ước bồi thường chiến tranh với Việt Nam Cộng hòa [13, 47]. Theo thỏa ước
này, Nhật Bản bồi thường cho Việt Nam Cộng hòa là gần 20 triệu USD và những
khoảng bồi thường này được Sài Gòn đầu tư vào xây dựng thủy điện Đa Nhi, bệnh
viện Chợ Rẫy…, các công trình công cộng, trang thiết bị. Ở miền Bắc Việt Nam ,
quan hệ không phát triển và hoạt động Việt – Nhật lúc đó là hồi hương tù binh
Nhật về nước. Ở Bắc Việt Nam
đã có 9 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Để giải quyết, chính phủ ta cho phần
lớn lính Nhật hồi hương về nước và trong dụng những người Nhật theo Việt Nam .
Theo “Bản danh sách những người chưa về
nước từ Đông Dương thuộc Pháp” của Bộ Lao động và Y tế Nhật Bản ban hành tháng
7-1955 thì đã 600/800 người tham gia Việt Minh;
những người Nhật ở Việt Nam này gọi là “người Việt Nam mới” [9, 68]. Họ ở lại
giúp cán bộ ta huấn luyện quân sự, trực tiếp tham gia chiến đấu chống Pháp và
nhận được nhiều huân chương, phần thưởng cao quý mà chính phủ Việt Nam phong tặng.
Thời kháng Mỹ, quan hệ Nhật – Việt Nam Dân chủ không phát triển nhưng quan hệ
của nhân dân hai nước, các tổ chức phi chính phủ và buôn bán của các công ty
Nhật với Việt Nam vẫn phát triển.
Sau khi đánh bại quân Mỹ - Sài Gòn và
thống nhất đất nước vào năm 1975, Việt Nam đã dần mở ra một trang mới trong
quan hệ Việt Nam – Nhật Bản. Lúc này uy tín và địa vị của Việt Nam được nâng
cao lên hơn bao giờ hết, các thế lực thù địch với Việt Nam không thể giữ mãi
thái độ cực đoan trong quan hệ với Việt Nam mà ngày càng tìm cách tạo cho mình
thái độ thân thiện, thậm chí là gần gũi với Việt Nam, mà Nhật Bản là một quốc
gia như thế. Ngày 21/9/1973, Nhật Bản đã chủ động thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam
ở cấp đại sứ. Năm 1974, sau khi lên nắm quyền, Thủ tướng T. Miki (1974 – 1978)
đã thực hiện chính sách Đông Nam Á,
trong đó Việt Nam là mục tiêu làm ông phải chú ý. Ông nhận thấy Việt Nam đang
ngày càng lớn mạnh, có vai trò lớn trong khu vực Đông Nam Á và là thị trường
đầy tiềm năng cho kinh tế Nhật Bản và khẳng định: Việt Nam đã trở thành một
nhân tố phải tính đến trong chính sách Đông Nam Á của Nhật Bản. Để thể hiện cho
chính sách của mình, Chính phủ Nhật Bản đã ra công hàm công nhận chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là chính phủ kế
tiếp của chính quyền Việt Nam Cộng hoà (8/5/1975). Tiếp đó vào năm 1976,
chính phủ Nhật tái khẳng định chính sách Đông Nam Á của mình, trong đó có Việt Nam : “Chính sách của nước ta đối với các nước Đông
Dương là cố gắng thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp với họ, dù chế độ chính
trị của họ khác chế độ chúng ta. Viện trợ thích hợp của nước ta cho công cuộc
tái thiết kinh tế của những nước này phải đóng góp vào hoà bình và phát triển ở
khu vực và cuối cùng ở Đông Nam
Á nói chung” [13, 136]. Về phía Việt Nam, chính phủ ta khẳng định chính
sách ngoại giao mở cửa của mình, xem Nhật Bản là một cường quốc kinh tế lớn,
khoa học – kỹ thuật mạnh mẽ và có vai trò quan trọng trên trường quốc tế; do đó
định hướng cho chính sách ngoại giao của ta với Nhật là: đẩy mạnh quan hệ với
Nhật trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế - lĩnh vực chính chi phối sự phát
triển của đất nước; đẩy mạnh hợp tác giữa hai nước là yêu cầu cấp bách và là
lợi ích của cả hai.
Quan hệ giữa hai nước bắt đầu được
đẩy mạnh thông qua chuyến thăm ngoại giao giữa lãnh đạo hai nước. Cuộc gặp gỡ
giữa Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Hatoyama với Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh
đã cải thiện tốt quan hệ ngoại giao- chính trị giữa hai nước. Tháng 7/1978 đặc
phái viên của chính phủ ta là Phan Hiền sang Nhật, hội đàm với chính phủ Nhật
bản việc xúc tiến quan hệ Việt – Nhật trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế.
Cùng với quan hệ chính trị, chính phủ Nhật Bản quyết định viện trợ không hoàn
lại cho Việt Nam 13,5 tỷ Yen (tương đương 39 triệu USD)[4, 278] để phục hồi –
phát triển kinh tế Việt Nam (tháng 10/1975); đồng thời vào năm 1976 thì Nhật
cũng xúc tiến trao đổi Đại sứ quán, mở nguồn vốn ODA viện trợ 14 tỷ Yen cho
Việt Nam không hoàn lại trong 4 năm và cho Việt Nam vay trong 2 năm. Tiếp theo
năm 1977, chính phủ ta ra Chính sách 4
điểm tuyên bố sẽ tạo dựng mối quan hệ thân thiện với láng giềng xung quanh
mình (nhất là các nước ASEAN) để cùng phát triển trong không khí hòa bình, hữu
nghị và hợp tác khu vực. Chính động thái tích cực của Việt Nam trong quan hệ với ASEAN đã làm Nhật Bản xích
lại gần hơn với Việt Nam
nhiều hơn. Năm 1977, Học thuyết Fukuda
của thủ tướng Nhật Bản Takeo Fukuda đã ra đời. Trong Học thuyết, Fukuda tuyên
bố tái xác nhận Nhật Bản là cường quốc hòa bình và thiết lập một mối quan hệ
tin cậy lẫn nhau với các nước Đông Nam Á (kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội)
và tăng cường sự đoàn kết hữu nghị với các nước này dựa trên cơ sở hiểu biết
lẫn nhau, qua đó Nhật Bản sẽ đóng góp vào việc thiết lập nền hòa bình, thịnh
vượng trong toàn khu vực châu Á [8, 73 – 98]. Như vậy thì thông qua nội dung
vừa xem ở trên, Thủ tướng Fukuda muốn tái xác nhận chính sách ngoại giao của
mình với Việt Nam ,
đồng thời làm “cầu nối” giúp ASEAN và 3 nước Đông Dương xích lại gần nhau, hợp
tác cùng phát triển. Cuối năm 1978, Nhật Bản tiếp tục cho Việt Nam
vay 10 tỷ Yen và viện trợ không hoàn lại 4 tỷ Yen.
Thế nhưng từ năm 1979 trở đi, việc
quân ta tiến quân sang giúp nước bạn Campuchia tiêu diệt bè lũ Polpot – Yeng
Sari đã làm quan hệ Việt – Nhật xấu đi. Cho rằng việc Việt Nam sang giúp Campuchia là hành
động xâm lược lãnh thổ nước khác, chính phủ Nhật có động thái tiêu cực: rút
viện trợ ODA (xem bảng 1), đòi quân ta rút lui và nếu cần thiết sẽ cho quân
sang, cùng quân đội các nước ASEAN can thiệp mạnh vào “vấn đề Campuchia”. Theo
Shiraishi Masaya: “Quan hệ Nhật Bản với
Việt Nam
tất yếu gắn liền với quyền lực chính trị quốc tế ở miền Tây Thái Bình Dương.
Lúc này Nhật Bản không có nhiều chỗ để hành động tự do đối với Hà Nội”. Dù
Nhật Bản có hành động rất quyết liệt như vậy, nhưng thực sự thì Nhật không muốn
làm là do áp lực từ nước lớn; các nước ASEAN đòi giải quyết vấn đề này và trong
thâm tâm thì Nhật càng không muốn làm việc này.
Năm
|
1979
|
1980
|
1981
|
1982
|
1983
|
1984
|
Tổng số
|
38,7
|
3,7
|
0,9
|
1,3
|
0,7
|
1,1
|
Năm
|
1985
|
1986
|
1987
|
1988
|
1989
|
1990
|
Tổng số
|
0,6
|
1,5
|
0,3
|
4,8
|
1,6
|
1,3
|
Bảng 1: Tài trợ của Nhật Bản cho Việt Nam thời kỳ
1979 – 1990 (triệu USD) [3, 286].
Mặc dù là quan hệ rất lạnh nhạt với
Việt Nam, thế nhưng Nhật Bản đã không vì thế mà làm mất vai trò, quyền lợi của
mình ở Việt Nam nên hai bên vẫn tăng cường qua lại lẫn nhau. Vào đầu thập niên
80, hai quan chức đầu tiên của Nhật Bản là A. Kiuchi (Tổng vụ châu Á của Bộ
Ngoại giao Nhật Bản) vả H. Fujii (Bộ Ngoại giao Nhật Bản) đã liên tiếp sang
thăm Việt Nam vào các năm 1981, 1982. Tháng 1/1982, hai bên đã ký với nhau hiệp
ước viện trợ nhân đạo cho Việt Nam; đây là hành động đầu tiên của Nhật Bản tự
chọc thủng chính sách “đông cứng” trong quan hệ với Việt Nam kể từ năm 1978. Về
phía ta thì từ tháng 3/1983, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hà Văn Lâu sang
thăm Nhật Bản và đây là động thái đầu tiên của Việt Nam nhằm xóa bỏ hố ngăn cách ngoại
giao Việt – Nhật, tạo điều kiện cho hai bên qua lại gần gũi nhau. Đáng chú ý
nhất là vào tháng 10/1984, Ngoại trưởng hai nước là S. Abe (Nhật Bản) và Nguyễn
Cơ Thạch (Việt Nam) đã gặp gỡ tại Tokyo và cùng nhau ký Bản ghi nhớ về mở rộng đối thoại giữa hai nước. Sau sự kiện này,
hai bên đã qua lại lẫn nhau đều đặn.
Vào thập niên 90 của thế kỷ XX, do sự
thay đổi của tình hình thế giới (chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên
Xô, chiến tranh lạnh chấm dứt, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia) mà hai nước
Việt Nam, Nhật Bản đã thay đổi chính sách ngoại giao theo hướng tăng cường sự
hiểu biết và thúc đẩy liên kết ở nhiều lĩnh vực. Về phía Nhật Bản, được sự giúp
đỡ của Mỹ thì chính phủ Nhật thi hành chính sách “quay trở lại châu Á”, nhằm
tiếp cận thị trường và tăng vai trò - ảnh hưởng của mình ở Đông Nam Á, trong đó
có Việt Nam. Quan hệ Việt – Nhật từng bước chuyển từ quan hệ kinh tế truyền
thống sang quan hệ chính trị - an ninh. Về phía Việt Nam thì kể từ khi Đổi mới
1986 bắt đầu, Việt Nam đã từng bước thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở, đa
phương hóa trên tinh thần sẵn sàng là bạn với các nước nhằm tranh thủ nguồn lực
phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Nhật Bản tích cực
điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình nhằm cải thiện quan hệ với các nước
Đông Dương, trong đó có Việt Nam .
Quan hệ Việt – Nhật bắt đầu có những bước cải tiến rõ rệt.
Để thể hiện thiện chí ngoại giao của
Việt Nam
với Nhật Bản, tháng 10/1990 Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã
sang thăm chính thức Nhật Bản và được Ngoại trưởng Nhật Bản Nakayama đón tiếp
trọng thể. Trong cuộc hội đàm, Ngoại trưởng Nhật Bản đánh giá rất cao chuyến
thăm này của Ngoại trưởng Việt Nam, xem đó là dấu mốc quan trọng để quan hệ
Nhật – Việt chuyển từ đối đầu sang quan hệ hợp tác vì sự phát triển và lợi ích
của hai nước trong khu vực. Về phần mình, Ngoại trưởng Việt Nam khẳng định quan hệ Việt – Nhật
phải đặt trên cơ sở mới, đó là sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác lẫn
nhau để cùng phát triển. Tháng 6/1991, Ngoại trưởng Nhật Bản sang thăm Việt Nam ,
mở đầu thời kỳ mới trong quan hệ Việt – Nhật. Từ năm 1991 trở về sau, hai bên
tăng cường qua lại lẫn nhau: chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt (3/1993)
và Tổng bí thư Đỗ Mười (4/1995) sang Nhật Bản và chuyến thăm Việt Nam của Thủ
tướng Nhật Bản Murayama (8/1994). Các chuyến thăm trên của nguyên thủ hai nước
từ 1993 – 1995 đã mở ra kỷ nguyên mới trong quan hệ Việt – Nhật: kỷ nguyên xích lại gần nhau, cùng hợp tác và
phát triển trên cơ sở hòa bình, hữu nghị vì lợi ích và mục tiêu chung của hai
nước. Đúng như lời của Thủ tướng Nhật Bản Murayama đã khẳng định trong cuộc
hội đàm với Thủ tướng Việt Nam năm 1993 rằng: “Từ nay trở đi, hướng tới tương
lai của kỷ nguyên mới trong quan hệ Nhật – Việt, tôi muốn xây dựng quan hệ hợp
tác rộng rãi không chỉ trên lĩnh vực hợp tác kinh tế, mà cả trong lĩnh vực
chính trị, văn hóa và các lĩnh vực hợp tác khác… Vì rằng sự phát triển của Việt
Nam không những quan trọng với
riêng Việt Nam
mà còn rất quan trọng với Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương và của cả thế
giới. Xuất phát từ nhận thức này, Nhật Bản sẽ đóng góp tối đa vào sự nghiệp đó
trong khả năng của mình”. Lời khẳng định đầy quyết đoán của Thủ tướng Nhật Bản
đã được phía Việt Nam hưởng ứng rất nhiệt tình và Việt Nam cũng hy vọng rằng,
với việc đề ra chủ trương ngoại giao đúng đắn đó của Thủ tướng Nhật Bản đã góp
phần xóa nhòa quá khứ trước đây của hai nước [5, 69], củng cố và phát triển mối
quan hệ Việt – Nhật trên cơ sở hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển. Trong
những năm tiếp theo, quan hệ Việt – Nhật ngày càng khắng khít thêm với các
chuyến thăm lẫn nhau giữa các đoàn thể chính phủ, các Bộ và ban ngành, các đoàn
thể thanh niên, phụ nữ, các nhà văn hóa, khoa học…
Bên cạnh quan hệ chính trị thì quan
hệ giữa các lĩnh vực khác cũng được tăng cường và phát triển hơn. Ngày
16/11/1992, Nhật Bản mở lại viện trợ ODA và viện trợ ngay cho Việt Nam
với điều kiện ưu đãi 45,5 tỷ Yen và không hoàn lại 14,75 tỷ Yen. Ngoài ra, Nhật
Bản đã vận động Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam; chủ động cùng Việt Nam
khai thông quan hệ với các tổ chức quốc tế như ADP, WF, IMF…; hợp tác mạnh mẽ
trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật. Về giáo dục, Nhật Bản hỗ
trợ học bổng sang Nhật du học và nghiên cứu khoa học. Số người Việt Nam
sang học tập và làm việc ở Nhật Bản ngày một tăng lên. Theo thống kê thì tới
năm 1994, Việt Nam
đã đưa hơn 100 người sang Nhật Bản nghiên cứu và học tập. Bên cạnh đó, hai bên
xúc tiến thành lập các hội giao lưu văn hóa Việt – Nhật, Trung tâm nghiên cứu
Nhật Bản, các hội chợ triển lãm các mặt hàng khoa học – công nghệ…
Từ năm 1995 trở đi, với sự kiện Việt Nam
gia nhập ASEAN và bình thường hóa với Mỹ, quan hệ Việt – Nhật đã bước sang
trang mới. Tháng 1/1996, hai bên xúc tiến mở “Hội nghị Hợp tác kinh tế Nhật –
Việt” lần thứ nhất, tổ chức ở Tokyo
và đây là Hội nghị đầu tiên mở ra xu thế hợp tác cùng hòa bình và phát triển.
Tiếp sau Hội nghị này là các chuyến thăm ngoại giao giữa nguyên thủ hai nước
Việt Nam , Nhật Bản đã diễn
ra rất mạnh mẽ: tháng 1/1997, thủ tướng Nhật Hashimoto đã sang thăm Việt Nam .
Trong chuyến thăm này, thủ tướng Nhật tuyên bố sẽ tiếp tục cung cấp 81 tỷ Yen
tín dụng ưu đãi, viện trợ không hoàn lại phi dự án 3 tỷ Yen, viện trợ văn hóa
không hoàn lại 87,9 tỷ Yen cho Việt Nam (trong năm 1996) [7, 66] trong các lĩnh
vực như kinh tế, tài chính, thương mại… Tiếp đó, thủ tướng Obuchi cũng đã sang
thăm Việt Nam
vào tháng 12/1998; chuyến đi trên đã giúp quan hệ hai bên thêm bền chặt. Ngoài
ra, các quan chức cấp cao ở Bộ Ngoại giao, Cục phòng vệ, Liên minh nghị sĩ hữu
nghị Việt – Nhật… cũng đến thăm Việt Nam . Hai bên tiếp tục trao đổi với
nhau nhiều vấn đề và trong đó, kinh tế là vấn đề nổi cộm. Theo thống kê của Đại
sứ quán Nhật Bản ở Việt Nam thì vào năm 1998, tổng vốn ODA Nhật Bản tài trợ cho
Việt Nam lên đến 102,3 tỷ Yen (hơn 4 tỷ USD). Trong khuôn khổ kế hoạch
Miyazawa, Việt Nam
tiếp tục được vay thêm 500 triệu USD [6, 49]. Thêm vào đó, cơ chế đối thoại cấp
Bộ trưởng và Thứ trưởng; hợp tác các ngành và các địa phương vẫn phát triển.
Trong hợp tác đa phương, Nhật Bản luôn đi đầu trong việc vận động các tổ chức
quốc tế bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, ủng hộ Việt Nam tham gia hội nhập
quốc tế và khu vực.
Về phía Việt Nam, tháng 3/1999 thủ
tướng Phan Văn Khải đã sang thăm Nhật Bản. Trong cuộc hội đàm, thủ tướng Nhật
bày tỏ sự cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác và giúp đỡ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực
(nhất là kinh tế), đồng thời tạo điều kiện cho các công ty Nhật tiến hành tài
trợ và đầu tư vốn, thiết bị công nghệ vào nước ta. Đến lượt mình, thủ tướng
Việt Nam cũng mong muốn phía
Nhật Bản sẽ gia tăng vốn đầu tư của mình vào việc phát triển nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam .
Từ năm 1997 – 2000, tổng vốn đầu tư ODA của Nhật vào Việt Nam tăng từ 4,011 tỷ
USD lên tới 752,4 tỷ Yen; các dự án đầu tư tăng từ 215 dự án (1996) lên 262 dự
án (1997) và đến năm 2000 thì lên đến mức 297 dự án với tổng vốn là hơn 3,8 tỷ
USD (hơn năm 1996 là 300 triệu USD). Các công ty lớn của Nhật Bản là
Mitsubishi, Sony, Toyota … đều đã có mặt ở Việt Nam
với dự án đầu tư lớn và đáng chú ý.
Đến năm 2001 – năm đầu tiên của thế
kỷ XXI, mặc dù tình hình thế giới có khá nhiều biến động lớn nhưng quan hệ Việt
– Nhật vẫn diễn ra đều đặn và được củng cố mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Từ năm 2001
– 2006, hai bên đều tổ chức các chuyến thăm lẫn nhau: Thủ tướng Việt Nam Phan
Văn Khải sang thăm Nhật Bản (6/2001; 4/2003;
6/2004 và tháng 7/2005); Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh sang thăm Nhật Bản (10/2002) và thủ tướng Nhật Bản J. Koizumi sang thăm
Việt Nam (4/2002); Ngoại trưởng Nhật Bản đã đến thăm Việt Nam (7/2004). Trong các cuộc hội đàm, cả hai bên Việt Nam và Nhật
Bản đều khẳng định quan hệ Việt – Nhật là quan hệ bình đẳng, hữu nghị, hợp tác
và cùng phát triển lâu dài về sau. Phía Nhật Bản tuyên bố sẽ tiếp tục thắc chặt
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai bên trên nhiều lĩnh vực (nhất là kinh tế)
ủng hộ mạnh mẽ công cuộc Đổi mới của Việt Nam, đồng thời cam kết sẽ tiếp tục
đầu tư ODA và kêu gọi doanh nghiệp Nhật đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam. Đáp lại
tấm chân tình của phía Nhật, chính phủ Việt Nam đánh giá cao sự ủng hộ của Nhật
Bản vào công cuộc Đổi mới ở Việt Nam, cảm ơn sự giúp đỡ của chính phủ - nhân
dân Nhật Bản, cũng như duy trì ODA trong thời gian qua. Thủ tướng Việt Nam khẳng định chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ
làm hết sức mình để quan hệ hai nước ngày càng sâu rộng theo phương châm “đối
tác tin cậy, ổn định và lâu dài” đã được hai bên thoả thuận từ năm 2002. Sau
hội đàm, hai bên đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng, trong đó nổi bật là hai
bên đã ký Tuyên bố chung “Vươn tới tầm cao mới của
đối tác bền vững” nhân chuyến thăm của Ngoại trưởng Nhật Bản sang Việt Nam
năm 2004. Cũng trong thời gian từ 2001 – 2006, tổng vốn ODA của Nhật Bản
đầu tư vào các lĩnh vực của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng. Mặc dù năm
2001 – 2002 vốn ODA của Nhật có giảm sút (2001 giảm 10%, 2002 giảm 1%) nhưng
vốn ODA của Nhật Bản cho Việt nam vẫn đạt mức 479 tỷ Yen (4,1 tỷ USD), chiếm
30% tổng vốn ODA mà các nước cam kết dành cho Việt Nam. Trong năm 2002 - 2006,
Chính phủ Nhật tiến hành viện trợ cho 26 dự án chính liên quan đến xây dựng
trường tiểu học và trung học cơ sở, cung cấp thiết bị y tế, hoàn thiện cơ sở hạ
tầng, đào tạo nghề với tổng vốn 213 triệu Yen.
Từ năm 2006 – 2013, với sự kiện Thủ
tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (10/2006) và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
(11/2007) thăm chính thức Nhật Bản đã mở ra một điểm sáng mới trong quan hệ
Việt – Nhật, đó là chuyển dần từ quan hệ song phương sang đa phương để tiến đến
quan hệ đối tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực, không chỉ riêng lĩnh vực kinh tế
như các năm đầu khi bắt đầu quan hệ mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như
văn hóa, giáo dục, khoa học – kỹ thuật… Trong hai chuyến thăm đó, có lẽ chuyến
thăm chính thức của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vào tháng 11/2007 là một
chuyến thăm quan trọng, có ý nghĩa lịch sử lớn và tạo được bước ngoặt quan
trọng trong quan hệ Việt – Nhật thời kỳ này. Trong cuộc hội đàm lần này
(11/2007), lãnh đạo hai bên cùng nhất trí
phối hợp tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa và thiết thực, tăng cường trao đổi
đoàn các cấp, thúc đẩy giao lưu văn hóa, giáo dục và du lịch giữa hai nước nhằm
tăng cường giao lưu, hiểu biết lẫn nhau và thắc chặt quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa hai nước. Kết thúc cuộc hội đàm, lãnh đạo của hai nước đã ký Tuyên bố
chung và thông qua “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến
lược giữa Việt Nam
và Nhật Bản”.
Sau chuyến thăm lịch sử này, nhiều
lãnh đạo Việt Nam sang Nhật ngày càng nhiều: Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã thăm
chính thức Nhật Bản từ 19 - 23/4/2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm làm việc
tại Nhật Bản (tháng 5 và tháng 11/2009), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
Phạm Gia Khiêm thăm Nhật Bản (tháng 1/2010), Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên
Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư thăm Nhật Bản (tháng 6/2011), Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng (30/10 - 2/11/2011), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm chính
thức Nhật Bản (5/12/2012) và về phía Nhật, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tham dự
Hội nghị cấp cao ASEAN và thăm chính thức Việt Nam tháng 10/2010, Hoàng Thái tử
Nhật Bản thăm Việt Nam (9-15/2/2009). Trong cuộc hội đàm, nguyên thủ hai bên đã
đồng thanh khẳng định với nhau sẽ cùng thắc chặt quan hệ Việt – Nhật trên nhiều
phương diện, nhất là về chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – giáo dục trên
cơ sở tự nguyện hợp tác toàn diện, cùng chung sống hòa bình và phát triển để
hòa nhập vào xu thế toàn cầu hóa hiện đang là xu thế phát triển chung của thế
giới. Kết thúc cuộc hội đàm, hai bên ký kết với nhau nhiều văn kiện về chính
trị, kinh tế và ngoại giao, trong đó nổi bật nhất là bản “Tuyên bố chung Việt
Nam – Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình
và phồn vinh ở châu Á” (31/10/2011) và “Bản Ghi nhớ của Bộ Quốc phòng hai nước
về hợp tác, trao đổi quốc phòng song phương” (10/2011). Trong “Tuyên bố chung
Việt Nam – Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa
bình và phồn vinh ở châu Á” ký ngày 31/10/2011, hai vị Thủ tướng của hai nước
cho rằng, Việt Nam – Nhật Bản “vốn là
những quốc gia chia sẻ lợi ích chiến lược, đã xây dựng nền tảng nhằm phát triển
hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược một cách toàn diện” [18]. Bản Tuyên bố
này của chính phủ hai nước đã mở ra thời kỳ mới, thời kỳ Việt – Nhật tiến tới
đối tác toàn diện và là đối tác chiến lược của nhau chứ không còn là đối tác
bình thường (kiểu song phương như trước). Cùng lúc đó, Bộ trưởng Quốc phòng hai
nước cũng đã ký với nhau Bản Ghi nhớ của
Bộ Quốc phòng hai nước về hợp tác, trao đổi quốc phòng song phương (10/2011).
Trong văn kiện này, hai bên cam kết nỗ lực tăng cường quan hệ giữa các quốc gia
ASEAN để tiến tới thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015; đồng thời Việt – Nhật
thông qua Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), kêu gọi các bên tham gia thực
hiện quyền tự do hàng hải, giao thương và tuân thủ Công ước Liên Hiệp quốc về
Luật biển năm 1982 nhằm ổn định khu vực để bảo vệ lợi ích của các bên về vấn đề
Biển Đông [10, 420 – 421].
Ngoài ra, hai bên cũng đã tăng cường trao đổi đoàn các cấp, thúc đẩy giao lưu
văn hóa, giáo dục và du lịch giữa hai nước nhằm tăng cường giao lưu, hiểu biết
lẫn nhau và thắc chặt quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước. Việc hai bên tổ chức các chuyến thăm lẫn nhau có ý
nghĩa rất quan trọng: khẳng định hai bên vừa là bạn bè, vừa là đối tác lẫn nhau
và cùng hợp tác để phát triển vì lợi ích cũng như vai trò của Nhật Bản, Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, việc quan hệ với Nhật Bản –
một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới đã giúp Việt Nam có cơ hội mở rộng hợp
tác với Nhật trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế hiện đang là lĩnh vực mũi
nhọn của nước ta. Vốn là đất nước vừa thoát ra khỏi chiến tranh nên kinh tế còn
lạc hậu, nghèo nàn; Việt Nam muốn hợp tác với Nhật chỉ nhằm mục đích nhờ người
Nhật hỗ trợ vốn để phát triển kinh tế, nhất là các ngành công nghiệp nặng –
công nghiệp mũi nhọn (công nghệ thông tin) là ngành đòi hỏi phải có khoa học kỹ
thuật và trình độ chuyên môn cao; sau khi đã phát triển tương đối ổn định thì
Việt Nam mới xin viện trợ của Nhật đễ phát triển văn hóa – xã hội, vốn là lĩnh
vực được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra khá muộn mằn trong Hiến pháp 1980. Về
lĩnh vực này, Việt Nam cần Nhật Bản viện trợ về học bổng, suất du học của học
sinh – sinh viên, tổ chức các Hội giao lưu văn hóa, đào tạo người Việt Nam đang
du học ở Nhật Bản theo chương trình học hiện đại của mình….để tăng cường học
hỏi, hiểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia. Ngoài ra, việc Việt Nam quan hệ với
Nhật Bản nhằm mục đích khẳng định vị trí và vai trò trong khu vực và trên thế
giới, bình thường hóa và mở rộng hợp tác nhiều mặt với các tổ chức và các quốc
gia và cường quốc trên thế giới. Về phía Nhật, việc quan hệ với Việt Nam tạo cơ
hội tốt cho việc thực hiện chính sách “Đông Nam Á”, vốn ra đời từ khi Nhật Bản bắt
đầu quan hệ với Việt Nam ngay từ những năm 1973 – 1974. Việc thi hành chính
sách này giúp Nhật tạo được vai trò và ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á vốn
là khu vực giàu tiềm năng về tài nguyên, nguyên liệu, đồng thời giúp Nhật tạo
dựng mối quan hệ đa dạng và toàn diện trên nhiều lĩnh vực với Việt Nam; tạo cơ
hội tốt cho Việt Nam có thể giao lưu, hội nhập với thế giới vốn thống nhất
trong đa dạng này.
Về hợp tác kinh tế với Việt Nam , mặc dù Nhật Bản có gặp nhiều khó khăn do
suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 – 2009 nhưng nhiều tập đoàn kinh tế Nhật
Bản vẫn quyết tâm tạo một làn sóng đầu tư mới cho Việt Nam . Trong
nhiều năm qua, dòng vốn đầu tư hai chiều tăng nhanh, cụ thể: từ năm 2005 đến
năm 2011, kim ngạch xuất – nhập khẩu giữa hai nước tăng từ 4,5 tỷ USD (2005)
lên tới 20 tỷ USD (cuối năm 2011) và sẽ còn tăng nữa trong những năm sau. Về
các dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam thì tính chung, từ 2005 – 2012, tổng
số công trình đầu tư và vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam tăng vọt, từ 511
dự án với tổng vốn đến hơn 6,2 tỷ USD (2005) lên tới 1.800 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng số đầu
tư đăng ký 29 tỷ USD, đứng thứ nhất trong số 96 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam. Riêng trong năm 2012 (tính đến 15/12/2012), Nhật Bản đăng ký
mới 270 dự án và tăng vốn cho 108 dự án, dẫn đầu với tổng vốn đăng ký cấp mới
và tăng thêm là 5,14 tỷ USD, chiếm 40% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam trong năm.
Về vốn đầu tư ODA, chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ tăng cường đưa vốn giúp Việt Nam
xây nhiều công trình công cộng và các lĩnh vực khác (xem bảng dưới)
Bảng thống kê biểu thị kim ngạch ngoại thương và tổng
vốn ODA của Nhật vào Việt Nam :
Kim
ngạch ngoại thương Việt Nam
– Nhật Bản (tỷ USD):
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
|
Việt
|
5,2
|
6,0
|
8,54
|
6,3
|
7,7
|
10,78
|
13,1
|
Việt
|
4,7
|
6,2
|
8,24
|
7,3
|
9,0
|
10,4
|
11,6
|
Tổng kim ngạch Xuất nhập khẩu
|
9,9
|
12,2
|
16,78
|
13,6
|
16,7
|
21,18
|
24,7
|
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Viện trợ ODA của Nhật Bản
vào Việt Nam
từ 2006 – 2012 (tỷ Yên):
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
|
ODA (tỷ Yen)
|
103,9
|
123,2
|
83,2
|
202
|
86,5
|
145
|
162,3
|
ODA (triệu USD)
|
893,3
|
1.046,2
|
804,7
|
2.156,3
|
985,4
|
1.819,3
|
1.900
|
Nguồn: Tổng cục Thống kê (1 Yen Nhật = 8,6 USD)
Nhìn bảng này, ta thấy viện trợ ODA của Nhật vào Việt
Nam tăng đều, duy chỉ có năm 2008 - 2010 là bị tăng - giảm đột ngột do vấn đề
tham nhũng ở Việt Nam đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng do kinh tế Nhật Bản
bị khủng hoảng và Việt Nam có tham nhũng lớn. Về sau do giải quyết tốt trong
nước nên Việt Nam
được Nhật Bản nối lại vốn ODA và nguồn vốn đó vẫn tiếp tục tăng đến 2012. Trung bình mỗi năm Việt Nam có dành 20 – 25 tỷ Yen để trả
nợ ODA cho Nhật Bản.
Năm 2013 là năm phát triển nhất của quan hệ Việt –
Nhật với hàng loạt các chuyến thăm hữu nghị giữa quan chức cấp cao của hai
nước. Đầu tiên đó là chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe
(nhậm chức lần 2) sang Việt Nam
vào ngày 16/1/2013 tại Hà Nội. Trong cuộc hội đàm, Thủ tướng Abe tuyên bố sẽ
xúc tiến kế hoạch triển khai Chiến lược
công nghiệp hóa của Việt Nam
trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam
- Nhật Bản hướng đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030. và tiếp tục viện trợ
cho Việt Nam (500 triệu USD) trong các lĩnh vực quan trọng của Việt Nam như
công nghiệp, giao thông vận tải, y tế… , cụ thể Nhật Bản phối hợp chặc chẽ với
Việt Nam để thực hiện các dự án quan trọng như đường cao tốc Bắc – Nam, cảng
Lạch Huyện, nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2, tiếp nhận điều dưỡng, hộ viên
Việt Nam . Về phía Việt Nam, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao quan hệ
Việt – Nhật và cảm ơn chính phủ và nhân dân Nhật Bản đã ủng hộ tích cực, hiệu
quả cho phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam thông qua hợp tác ODA trong 20
năm qua. Để không ngừng củng cố quan hệ hữu nghị - hợp tác giữa hai nước, hai
vị thủ tướng đã nhất trí sẽ tiếp tục tăng cường các chuyến thăm ngoại giao giữa
lãnh đạo cấp cao cũng như đối thoại với các cấp; phối hợp chặt chẽ để triển
khai hiệu quả các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng; tăng cường hợp tác trên các
vấn đề quốc tế, khu vực và các vấn đề hai bên cùng quan tâm; giải quyết các
tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Hai bên bày tỏ tin tưởng kết quả
chuyến thăm Việt Nam này của Thủ tướng Nhật Bản Abe đánh dấu một giai đoạn mới,
giai đoạn của quan hệ Đối tác chiến lược giữa 2 nước Việt Nam – Nhật Bản. Nhân
dịp này, 2 vị thủ tướng của hai nước đã cùng tuyên bố lấy năm 2013 là “Năm Hữu
nghị Việt Nam - Nhật Bản” và nhất trí sẽ phối hợp chặt chẽ để tổ chức tốt các
hoạt động kỷ niệm ở mỗi nước.
Nhận định về chuyến thăm lịch sử này của ông Abe tới
Việt Nam, nhiều tờ báo và cơ quan báo chí bàn luận khá sôi nổi: Hãng tin Kyodo (Nhật)
ngày 16-1 nói: Thủ tướng Shinzo
Abe mong muốn thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương, khuyến khích các công
ty Nhật tham gia xây dựng các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam nhằm
góp phần khôi phục kinh tế Nhật; Báo Japan
Daily Press (Nhật) nhận định
Nhật đang tìm cách củng cố hơn vị thế của Nhật ở Việt Nam với tư cách là nhà
đầu tư nước ngoài lớn nhất của Việt Nam; Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) dẫn lời GS
Carl Thayer ở Học viện Quốc phòng Úc nhận định Thủ tướng Shinzo Abe muốn xây
dựng quan hệ vững mạnh với Việt Nam và Philippines thông qua một cơ chế đối
thoại quốc phòng chiến lược mới; báo Youmiri Shimbun (Nhật) cho biết trước khi
lên đường sang Việt Nam, Thủ tướng Abe có nói: “Tôi muốn chuyến thăm này mở đầu
cho thuyết ngoại giao chiến lược của nội các Nhật dưới thời Shinzo Abe. Tôi
cũng muốn thúc đẩy tăng trưởng của Nhật qua quan hệ đối tác vững mạnh với
ASEAN”.
Sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam, cùng ngày hôm
đó Thủ tướng Nhật Bản đã có cuộc trao đổi song phương và tình hình quốc tế với
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và chào xã giao với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Chuyến thăm này của Thủ tướng Nhật Bản tới Việt Nam mở ra thời kỳ tiến tới là Đối
tác toàn diện giữa hai bên về mọi mặt. Về kinh tế, Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng
cường tài trợ mà cụ thể là vốn ODA vào Việt Nam . Theo thông tin từ đại sứ Nhật
Bản tại Việt Nam, ông Tanizaki Yasuaki thì Nhật Bản cam kết sẽ tài trợ 2,6 tỷ
USD (vốn ODA) vào Việt Nam, nhiều hơn so với các nước và tổ chức khác tài trợ
vào Việt Nam: Hàn Quốc 1,2 tỷ USD, EU 965 triệu USD và Pháp 340 triệu USD. Theo
đánh giá chung của các nhà chiến lược kinh tế và đầu tư thì vốn đầu tư ODA mà
các nhà đầu tư nước ngoài (nổi bật là Nhật Bản) giảm gần 2 tỷ USD trong 3 năm
liên tiếp (năm 2009 là 8 tỷ USD, 2010 giảm xuống còn là 7,9 tỷ USD, năm 2011 là
7,4 tỷ USD và năm 2012 là gần 7 tỷ USD) mà nguyên nhân dẫn đến vấn đề này xảy
ra là do khủng hoảng kinh tế còn tồn tại dai dẳng đến hiện nay. Các lĩnh vực
Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam
rất đa dạng: chế tạo máy, công nghiệp hỗ trợ và cả dịch vụ - lĩnh vực được xem
là “hot” nhất hiện nay.
Tiếp sau chuyến thăm ngoại giao của thủ tướng Nhật Bản
Abe sang Việt Nam, hàng loạt các chuyến thăm khác của lãnh đạo 2 bên sang Việt
Nam: Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Saiki (1/2013), Chủ tịch liên đoàn kinh tế
vùng Kansai (4/2013), Trưởng đại diện cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
(5/2013)…sang thăm và làm việc ở Việt Nam. Về phía ta thì vào cuối tháng
5/2013, Phó thủ tướng Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân sang thăm Nhật Bản….. Tháng
6/2013, Việt Nam diễn ra sự
kiện lớn là chuyến thăm của cựu Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama sang Việt Nam . Trong cuộc
hội đàm tại Hà Nội, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cám ơn những tình cảm
tốt đẹp của Nhật Bản trong nhiều năm qua và mong muốn Việt Nam sẽ cùng Nhật Bản
thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước (về chính trị - ngoại giao,
kinh tế, văn hóa – xã hội) vì sự thịnh vượng và phát triển chung của hai nước. Về
phía mình, ông Hatoyama mong muốn quan hệ Đối tác chiến lược Việt – Nhật sẽ
tiếp tục được phát triển trên các lĩnh vực nhằm mang lại lợi ích cho cả hai
bên. Đồng thời, ông Hatoyama cũng cam kết sẽ tiếp tục viện trợ ODA vào Việt Nam
ủng hộ Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực,
phát triển công nghiệp phụ trợ, khoa học công nghệ…
2. Triển vọng trong quan hệ Việt - Nhật
Có thể nhận định rằng, từ năm 1992
trở lại đây, quan hệ Việt – Nhật đã đi vào thế ổn định và đơm hoa kết trái. Với
mục tiêu “khép lại quá khứ và nhìn về tương lai”, hai bên mở rộng quan hệ ngoại
giao với nhau ngày càng chặc chẽ trên nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh tế
- lĩnh vực đầu tiên mà người Việt Nam cũng như Nhật Bản hết sức quan tâm khi
thiết lập mối quan hệ lẫn nhau. Trong hiện tại và tương lai, quan hệ Việt –
Nhật sẽ ngày càng phát triển để tiến tới là Đối tác toàn diện của nhau trên các
lĩnh vực, chuyên ngành cụ thể. Theo xu thế phát triển chung của thế giới, quan
hệ Việt – Nhật sẽ phát triển và tạo nhiều triển vọng lớn, đó là các cơ hội và
thách thức:
Về cơ hội:
Thứ nhất,
việc tham gia hợp tác và tạo mối quan hệ sâu rộng với Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam
tạo được môi trường hòa bình, thuận lợi để phát huy việc xây dựng nền công
nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện đang trên đà phát triển của chính quyền và nhân
dân ta. Thông qua các cơ chế đối thoại thường kỳ giữa lãnh đạo cấp cao, cấp Bộ
và ban ngành giữa Việt Nam với Nhật Bản sẽ giúp chúng ta học tập được nhiều về
cơ chế quản lý chính quyền, kinh tế, cách giải quyết tranh chấp lãnh thổ… qua
đó tạo dựng sự tin cậy cao và cùng phát triển.
Thứ hai, quan
hệ tốt với Nhật Bản giúp Việt Nam có điều kiện mở rộng hợp tác với Nhật Bản, từ
đó tiến đến mở rộng hợp tác với thế giới. Thực vậy, Nhật Bản tuy là nước nhỏ
(diện tích 380.000 km2) và tài nguyên nghèo nàn, thế nhưng nhờ biết
lợi dụng những điều kiện thuận lợi trong nước (ủng hộ của chính phủ, giúp sức
của nhân dân và học hỏi khoa học ở bên ngoài) nên Nhật Bản đã phát triển mạnh
và trở thành cường quốc lớn mạnh. Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2012)
thì tổng GDP bình quân là 4,684 nghìn tỉ USD (hạng 3), thu nhập bình quân đầu
người là hơn 47 USD (hạng 16) [14] thì Nhật Bản quả là quốc gia phát triển rất
mạnh, rất đáng để cho Việt Nam học hỏi. Là đối tác quan trọng và nổi bật của
Nhật Bản, Việt Nam
có cơ hội được học tập và tăng cường hợp tác quốc tế với Nhật Bản trên nhiều lĩnh
vực. Mặc dù đôi lúc còn gặp những trở ngại, nhưng quan hệ Việt – Nhật vẫn rất
phát triển, nhất là kinh tế. Theo dự đoán của tác giả (mang tính tham khảo),
nguồn ODA của Nhật tài trợ cho Việt Nam trong những năm sau là từ 7 – 10 tỷ USD
(2013 hiện nay đang là 6,5 tỷ USD) và về sau sẽ còn hơn thế. Tổng số công trình
mà Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam tiếp tục tăng, theo dự đoán của tác giả bài
viết sẽ là khoảng 2.000 dự án với tổng vốn đầu tư là 30 – 40 tỷ USD, tăng gấp
nhiều lần so với các năm về trước. Quan hệ với Nhật Bản, Việt Nam có có cơ hội
mở rộng buôn bán và về sau sẽ dựa vào “cầu nối” của Nhật Bản để tiếp cận và hợp
tác với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới.
Thứ ba, quan
hệ tốt với Nhật Bản cũng giúp Việt Nam có cơ hội thu hút được nguồn lực bên
ngoài, tranh thủ nguồn lực bên trong để phát triển. Như chúng ta đã biết, Nhật
Bản là một cường quốc thì tất nhiên, quốc gia sẽ rất giàu mà nhiều nhất là con
người, khoa học – kỹ thuật, tài chính và văn hóa – giáo dục. Quan hệ với Nhật
Bản, Việt Nam có điều kiện học hỏi để nâng cao trình độ sản xuất, cải tiến
trang thiết bị kỹ thuật với công nghệ Nhật Bản sẽ tạo ra nhiều loại hàng hóa có
chất lượng tốt, mẫu mã đẹp đủ để xuất – nhập khẩu thuận lợi. Mặc dù có nhiều
trở ngại và khó khăn, nhưng hai bên đều có điều kiện hỗ trợ, bổ sung cho nhau
để phát triển, tăng cường sức mạnh nội lực hơn nữa.
Về thách thức:
Thứ nhất,
Việt Nam
quan hệ với Nhật Bản vào lúc khoảng cách trình độ phát triển hai nước chênh
lệch khá lớn. Nhật Bản sau Thế chiến 2 là quốc gia bại trận, kinh tế suy yếu
nghiêm trọng. Nhưng nhờ chính sách của chính phủ và sự nổ lực hết mình của nhân
dân mà Nhật Bản thoát khỏi thời kỳ đó, vươn lên và phát triển thần kỳ dưới thời
Thủ tướng Ikeda Hayato (1960 – 1964) và đã trở thành cường quốc, hiện đứng thứ
hai sau Mỹ về trình độ phát triển. Việt Nam quan hệ với Nhật Bản lúc đang
kết thúc chiến tranh với Mỹ và chuẩn bị hàn gắn vết thương chiến tranh, hồi
phục đất nước. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, nước ta gặp nhiều bất cập
về trình độ quản lý, kết cấu hạ tầng và năng lực cán bộ còn yếu nên dẫn tới
những bất lợi trong quan hệ với Nhật Bản.
Thứ hai, do
sự khác biệt về chế độ chính trị đã dẫn tới cách nhìn nhận khác nhau về các vấn
đề chính trị, an ninh và kinh tế - xã hội. Vấn đề tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông luôn là vấn đề chính và gây nóng bỏng trong quan hệ Việt – Nhật. Hai
nước này có cùng điều kiện tự nhiên (gần biển, nhiều tài nguyên), có vị trí
chiến lược quan trọng nên dẫn tới sự khác biệt về quan điểm về lợi ích cũng như
cách giải quyết vấn đề đó trong mối quan hệ hai nước và trường quốc tế. Và vấn
đề đó cũng gây tác động không nhỏ đến quan hệ Việt – Nhật hiện nay.
Tóm lại ta có thể thấy rằng, việc
Việt Nam
thiết lập mối quan hệ lẫn nhau và những hoạt động của họ trong mối quan hệ này
đã góp phần thúc đẩy quan hệ Việt – Nhật phát triển mạnh lên tầm là Đối tác
chiến lược của nhau trên trường quốc tế. Mặc dù gặp không ít những khó khăn và
thách thức, nhưng nhìn chung thì Việt Nam có những phương sách, chiến
lược phù hợp trong quá trình hội nhập quốc tế. Mục tiêu của Việt Nam trong quan
hệ với Nhật Bản là tranh thủ tình hình thế giới để mở cửa, học hỏi kinh nghiệm
và khoa học kỹ thuật để tăng cường hợp tác, liên kết với Nhật Bản, phát huy nội
lực trong nước để đảm bảo nền độc lập và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Đó chính là nguyên tắc cơ bản, quyết định thành công
trong quá trình hợp tác với Nhật Bản nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Akira, Irie (2012), Ngoại giao Nhật Bản: sự lựa chọn của Nhật Bản trong thời đại toàn cầu
hóa (Lê Thị Bình dịch), NXB Tri thức, Hà Nội.
2. Thạch Anh (2013), Thúc đẩy quan hệ toàn diện Việt -
Nhật http://phapluattp.vn/20130116110523851p0c1017/thuc-day-quan-he-toan-dien-vietnhat.htm
3. Ngô Xuân Bình (1999), Quan hệ Nhật Bản – ASEAN: chính sách và tài trợ ODA, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
4. Ngô Xuân Bình, Trần Quang Minh (2005), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản: quá khứ, hiện tại
và tương lai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Daily Report,
FBIS – Southeast Asia , 25 August 1994
6. Nguyễn Duy Dũng (2000), “Quan hệ Việt Nam –
Nhật Bản trong thời kỳ Đổi mới”, Tạp chí
Nghiên cứu Nhật Bản, số 3/2000.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
8. Dương Phú Hiệp, Ngô Xuân Bình, Trần Anh Phương, 25 năm quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, NXB
KHXH, Hà Nội.
9. Hoàng Hồng (2008), “Cống hiến của
những người Nhật “Việt Nam mới” với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
Việt Nam (1946 – 1954)”, Kỷ yếu Hội thảo
Việt Nam học lần thứ 3, Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Quốc Hùng (2012), Lịch sử Nhật Bản, NXB Thế giới, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn
Kim (2003), Nhật Bản với châu Á: những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến
kinh tế - xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Koffler, Jean (1911), Description historique de la Cochinchine, Revue Indochinoise.
13. Masaya, Shiraishi (1994), Japanese relations with Vietnam
1951 – 1987, bản dịch , NXB Khoa học Xã hội.
14. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Japan ;
http://www.imf.org/external/pubs/ft/weo/2010/01/weodata/weorept.aspx?sy=2007&ey=2010&scsm=1&ssd=1&sort=country&ds=.&br=1&c=158&s=NGDPD%2CNGDPDPC%2CPPPGDP%2CPPPPC%2CLP&grp=0&a=&pr.x=84&pr.y=8.
Truy
cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
15. Sudo, Sueo (1992), The Fukuda Doctrine and ASEAN,
ISEAS, Singapore .
16. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1960), Cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thế kỷ XIII, NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
17. Trần Nam Tiến (2004), “30 năm quan hệ ngoại giao –
chính trị Việt Nam – Nhật
Bản (1973 – 2003): thành tựu và triển vọng”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 30 năm quan hệ Việt Nam – Nhật Bản (1973 – 2003): kết
quả và triển vọng, NXB Khoa học Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
18. “Tuyên bố chung Việt Nam – Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ
đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” (10/2011) giữa Việt Nam và
Nhật Bản; báo Nhân dân, số 20509,
ngày 1/11/2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét