Đề
tài: Quá trình giao thoa giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác (tiếng Chăm, tiếng
Khmer) ở vùng đồng bằng song Cửu Long (Việt Nam )
Thái Nguyễn Đức Minh Quân - bài viết hội thảo Ngôn ngữ Nam Bộ ở An Giang - 2013
Nam Bộ
là một vùng đất tuy có hơn 300 năm lịch sử hình thành và phát triển, nhưng lại
là vùng đất thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học. Sở dĩ
như vậy là vì Nam Bộ là vùng đất thiên nhiên rất đa dạng và phong phú, đất đai
màu mỡ và có đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn nhất (40.000 km2 ) kéo
dài từ bồn địa Tonle Sap (Campuchia) ra Biển Đông. Do điều kiện tự nhiên thuận
lợi nên Nam Bộ trở thành nơi hội tụ nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ và nhiều nền
văn hóa khác nhau. Các dân tộc đến định cư trong thời khai phá là người Việt,
người Chăm, người Khmer và người Hoa, tuy có khác nhau về văn hóa và ngôn ngữ
nhưng khi tới Nam Bộ, tính hỗn dung và hòa hợp của vùng đất này đã làm các dân
tộc xích lại nhau và giao lưu lẫn nhau.
Sự giao lưu đó của họ đã làm cho Nam Bộ, vốn là vùng đất trù phú được thiên
nhiên ban tặng, trở thành vùng đất mang tính đa dạng trong thống nhất (về ngôn
ngữ, văn hóa…). Người Malaysia
từng có câu: “Thống nhất trong đa dạng”, là cũng vì lý do như thế. Trong bài viết
này, tác giả không có tham vọng tìm hiểu hết các khía cạnh của Nam Bộ, mà chỉ
muốn đi sâu vào một vấn đề cụ thể: “Quá trình giao thoa giữa tiếng Việt với các
ngôn ngữ khác trong khu vực”[1].
Thông qua vấn đề chính được nêu trong bài, tác giả muốn khái quát quá trình
giao thoa giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác ở Nam Bộ, xen thêm một vài nhận
định để từ đó cho thấy tiếng Việt ở Nam Bộ tuy là ngôn ngữ chính thức ở vùng
này, nhưng khi giao thoa với các ngôn ngữ khác thì tiếng Việt trở nên đa dạng
hơn, phong phú về ngôn từ và ngữ nghĩa, làm cho văn hóa Nam Bộ thêm phong phú
và đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Tiếng Việt ở nước Việt Nam và quá trình du
nhập của tiếng Việt vào Nam Bộ
Trước khi chúng ta tìm
hiểu về tiếng Việt, chúng ta định nghĩa ngôn
ngữ là gì ? Ngôn ngữ có nhiều định nghĩa, nhưng chúng tôi chọn 2 định nghĩa
được cho là phổ biến và thông dụng nhất. Lý Tùng Hiếu trong sách Ngôn ngữ - văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ,
định nghĩa: “Ngôn ngữ là chỉ khái niệm gián tiếp nói chung, biểu thị ở công đồng
người cụ thể. Không có ngôn ngữ chung cho cả dân tộc, chỉ có ngôn ngữ riêng của
từng tộc người”[2].
Marx, Engels và Lenine trong Bàn về ngôn ngữ
cũng định nghĩa: “Ngôn ngữ là ý thức tồn tại, ngôn ngữ cũng tồn tại cho những
người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; cũng
như ý thức, ngôn ngữ chỉ được sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch
với những người khác”[3].
Như vậy, ta hiểu ngôn ngữ chính là cái để biểu thị của con người và trong lịch
sử, ngôn ngữ có trước chữ viết với hình thái ban đầu là “nói” (phát âm thành tiếng),
về sau khi nhà nước ra đời, xuất hiện nhu cầu sản xuất và mua bán, khi đó chữ
viết ra đời. Chữ viết là công cụ dùng trong hoạt động kinh tế, mua bán và giao
dịch rất tiện lợi. Chữ viết gồm nhiều bộ phận, nhưng bộ phận quan trọng của nó
là âm tiết (trong đó có nguyên âm và phụ âm). Các phụ âm và nguyên âm được kết
nối vào nhau tạo thành chữ viết, từ đó hình thành ngôn ngữ chính thức. Các loại
ngôn ngữ (trong đó có cả tiếng Việt) được hình thành không ngoài quy tắc đó.
Các nguyên nhân hình thành ngôn ngữ là: tiếp xúc ngôn ngữ giữa ngôn ngữ bản xứ
với ngôn ngữ ngoại lai; nguyên nhân địa lý (chia cắt lãnh thổ về mặt tự nhiên,
nguyên nhân kinh tế… và các nguyên nhân khác.
Tiếng Việt là loại ngôn
ngữ không nằm ngoài các tiêu chí trên. Trước khi tìm hiểu về tiếng Việt (về nguồn
gốc, sự phát triển) thì chúng ta nên tìm hiểu cái đầu tiên là người Việt. Người
Việt có nguồn gốc ở đâu ? Họ xuất hiện ở đất nước Việt Nam này từ bao giờ và phát triển
như thế nào ? Ngược dòng lịch sử ta thấy, các dân tộc Việt Nam hiện này là đều có gốc là người Indonesiens
cổ (kết hợp giữa người Mongoloid phương Bắc và người Australoid phương Nam ).
Thời kỳ đầu, họ sống tập trung ở Nam Trung Quốc (vùng Nam Trường Giang). Khi bị
quân Tần tấn công (218 – 214 TCN), người Indonesiens di chuyển dần xuống phía
Nam và bị phân hóa: một nhóm Indonesiens nói ngữ hệ Nam Á chạy xuống vùng Miến
Điện, Bắc Campuchia và hình thành người Môn; đại bộ phận người Indonesiens còn
lại rút về phía Nam. Ở Trung Bộ (vùng Quảng Nam – Quảng Ngãi), người
Indonesiens phân thành 5 tộc người là Churu, Giarai, Raglai, Edeh và Chăm. Người
Chăm chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo nên sống ở miền biển, 4 tộc người còn lại dị
ứng với văn hóa Ấn Độ thì rút lên Tây Nguyên ở, giữ lại tính Indonesiens bản địa,
nói ngữ hệ Nam Á; một số tộc khác như Stieng, Mạ sinh sống ở vùng Đông Nam Bộ
ngày nay. Sự hình thành các nhóm Indonesiens ở khắp nơi dẫn tới sự hình thành
ngôn ngữ khác nhau ở mỗi vùng: Indonesiens phía bắc nói ngôn ngữ phía Bắc (hay
phương ngữ phía Bắc); Indonesiens miền Trung nói ngôn ngữ phía Trung và
Indonesiens Nam Bộ nói ngôn ngữ phương Nam và ba loại ngôn ngữ này là hoàn toàn
khác nhau.
Quá
trình du nhập của ngôn ngữ đến vùng Nam Bộ theo quy luật từ Bắc xuống Nam (phát triển từ Bắc xuống Nam – giống quy luật phát triển của Trung Quốc
(từ Bắc xuống Nam )).
Ngôn ngữ Việt cổ xuất hiện ở phía Bắc Việt Nam, thời Văn Lang – Âu Lạc Tiếng Việt
xuất phát đầu tiên ở vùng Bắc Bộ vào thời Văn Lang – Âu Lạc mà người ta gọi là
chữ Việt cổ. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và nhà khảo cổ, chữ Việt cổ
chính là chữ Khoa đẩu và nó có dạng
hình con nòng nọc (đến nay chưa giải mã được hết). Đến thời Bắc thuộc, do chịu ảnh
hưởng của luồng văn hóa Hán với người Việt mà tiếng Việt đã trải qua quá trình
phát triển đơn âm tiết và thanh điệu hóa. Bởi vậy, bên cạnh những âm tiết thuần
Việt vẫn còn có nhiều âm tiết Hán – Việt. Dù vậy, tiếng Việt tuyệt nhiên không
bị biến chất thành tiếng Hán cổ[4].
Tiếng Hán – Việt được sử dụng ở nước ta từ thế kỷ VII đến thế kỷ XII – XIII, dần
đã trở thành ngôn ngữ phổ thông được mọi người Việt ưa dùng. Đến thế kỷ XII –
XIII, cảm thấy Hán – Việt nó ít vần (Đào Duy Anh thống kê được trong số 150 vần
tiếng Việt thì chỉ có 75 vần Hán – Việt, ít từ vựng (60% từ vựng là Hán – Việt),
cách viết rắc rối và phức tạp nên người Việt đơn giản hóa cách viết: bỏ vài nét
chữ, tăng số vần lên… dẫn tới hình thành chữ Nôm. Chữ Nôm xuất hiện bắt đầu từ
thời Trần (thế kỷ XIII), phát triển và trở thành chữ viết chính thức vào thời
Lê và Tây Sơn. Thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ xuất hiện qua quá trình truyền bá tôn
giáo của các giáo sĩ Thiên Chúa mà người phát minh đó là Alexandre de Rhodes
(1596 – 1651), người cho xuất bản Từ điển
Việt – Bồ - Latin đưa chữ Quốc ngữ vào Việt Nam. Đến thế kỷ XIX – XX, chữ
này được truyền bá rộng rãi ra xung quanh và trở thành chữ viết chính thức của
nước ta hiện nay.
Chữ Việt
được hình thành và phát triển như thế, tuy nhiên lúc đầu nó chỉ tồn tại ở miền
Bắc mà thôi. Từ thế kỷ XI – XVI, qua những cuộc Nam chinh của chính quyền Đại Việt
thì chữ Việt được truyền bá vào, nhưng chưa được rõ nét. Trái lại, vùng phía
Nam Đại Việt (tức Nam Bộ) thời kỳ đó còn hoang hóa, nhiều nơi bị ngập sâu trong
nước, cư dân ở đây chỉ sống tập trung ở các khu vực Bảy Núi (An Giang), các bãi
bồi ven biển Sóc Trăng và Trà Vinh hiện nay mà thôi[5].
Ngôn ngữ chủ yếu của cư dân vùng này chủ yếu là tiếng Khmer vốn xuất hiện ở
Campuchia vào thế kỷ VII. Tháng 11/1558, khi Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm cho
vào trấn thủ xứ Thuận Hóa là một nơi “độc địa, rừng thiên nước độc”, ông đã cố
gắng phát triển thế và lực của mình, đồng thời cho di dân ở các vùng phía Bắc
Trung Bộ và Bắc Bộ di cư vào Thuận – Quảng khai phá và sinh sống. Quá trình di
cư của người Việt được tiến hành cùng lúc với quá trình mở rộng lãnh thổ: 1611
tới Phú Yên; 1693 tới Bình Thuận; 1698 tới Biên Hòa – Gia Định và đến 1757 là đến
tận mũi Cà Mau.
2. Quá trình giao thoa giữa tiếng Việt với
các ngôn ngữ khác ở khu vực Nam Bộ
Trước
khi chúng ta tìm hiểu giao thoa ngôn ngữ trong đời sống người dân ở Nam Bộ thì
chúng ta tìm hiểu “giao thoa” là gì ? Giao
thoa là một khái niệm thường dùng ở một số ngành khoa học tự nhiên khác nhau,
trong đó nổi bật nhất là ngành vật lý. Người ta thường nói đến giao thoa ánh
sáng, giao thoa âm thanh… và nhiều giao thoa khác; người ta định nghĩa giao
thoa chính là sự chồng chập của hai hoặc nhiều sóng mà tạo ra một hình ảnh sóng
mới[6].
Nhưng trong khoa học xã hội, đặc biệt là ngôn ngữ học thì khái niệm này được hiểu
theo nghĩa khác: “Giao thoa là một sự đi chệch hướng khỏi tiêu chuẩn ngôn ngữ
chung. Ngôn ngữ nào cũng có sự giao thoa và giao thoa theo ngôn ngữ có 3 loại:
giao thoa ngữ âm, giao thoa ngữ nghĩa và giao thoa ngữ pháp”[7].
Quy luật giao thoa giữa các ngôn ngữ là: ngôn ngữ mới đến của dân di cư sẽ tiếp
xúc, giao lưu với ngôn ngữ bản địa (về ngữ âm, ngữ nghĩa…) để rồi tạo nên hệ thống
ngôn ngữ thống nhất, hoàn chỉnh. Tiếng Việt ở Nam Bộ không nằm ngoài quy luật
trên, nó phát triển và giao thoa với các ngôn ngữ khác để tạo thành hệ thống
ngôn ngữ thống nhất và toàn vẹn như hiện nay. Có nhiều dấu hiệu để nhận dạng sự
giao thoa giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác trong khu vực Nam Bộ:
Dấu hiệu đầu tiên của sự
giao thoa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác là tiếng Việt luôn có sự hiện diện của
tiếng các dân tộc khác và ngược lại. Như ta đã biết, người Việt di cư vào Nam Bộ
đã mang theo ngôn ngữ và văn hóa của mình vào đây. Trong quá trình sinh sống, họ
tiếp xúc và giao lưu với người Chăm, Khmer để tiếp thu ngôn ngữ, văn hóa của họ,
điều đó giúp cho người Việt trở nên dạn dĩ, hòa đồng và cởi mở hơn; văn hóa và
ngôn ngữ của người Việt trở nên đa dạng và phong phú. Tiếng Việt trở thành ngôn
ngữ chính của các dân tộc bên cạnh sự hiện diện của hiện tượng song ngữ, đa ngữ
vốn có mặt rải rác ở các vùng cộng cư Việt - Khmer - Chăm, Việt – Hoa. Chúng tôi dẫn
chứng trường hợp đầu tiên: tiếng Việt có sự hiện diện của tiếng Khmer. Người Việt
trong quá trình tiếp xúc với người Khmer đã học “lóm” ngôn ngữ của họ, rồi ký
âm lại bằng cách dùng mẫu tự tiếng Việt; tuy nhiên số lượng từ ngữ của nó là
không nhiều. Tiêu biểu cho trường hợp này là các từ: cà ràng, xà quần, mình ên,
cái lóp… . (dùng nhiều trong hoạt động kinh tế, xã hội của người Khmer). Vốn sống
chủ yếu ở vùng sông nước nhiều cá tôm nên người Khmer sáng tạo ra nhiều vật dụng
phục vụ cho mình: xneng, cái lộp... Xneng
là dụng cụ đan bằng tre, trúc của người Khmer và nó có hình cái xuồng. Người
Khmer dùng nó để đánh bắt cá, tép ở những nơi nước cạn, cỏ hoang mọc đầy. Có
câu ca dao nói về dụng cụ này:
Chiều
chiều lấy cái xneng
Lên đồng
xúc ca hái sen một mình
Ngoài cái xneng ra,
người Khmer còn dùng lộp để bắt cá. Cái
lộp theo tiếng Khmer là dụng cụ đan
tre, dùng để bắt cá, tôm. Một đâu của lộp có hom bằng tre vót cỡ chiếc đũa ăn,
hình phễu, cá tôn và rùa rắn vào được nhưng không thể ra. Nông dân miệt này ai
cũng biệt, cũng dùng lộp đế bắt thủy sản.
Về khoảng nấu nướng thì ở gia đình người Khmer không thể nào
không có một trong 2 từ ngữ Khmer chỉ dụng cụ bếp rất thông dụng là cà ràng và sim lo. Cà ràng (gốc
Khmer là kran) có nghĩa là bếp lò. Cà
ràng xuất hiện từ lâu đời và được cư dân văn hóa Óc Eo (1500 – 2000 năm trước
đây), Phù Nam
(thế kỷ I – VII) sử dụng. Sau khi đánh bại Phù Nam , người Khmer tiếp thu cái cà
ràng này của họ và sử dụng (trong đó có cả truyền cho người Việt) liên tục cho
đến ngày nay. Hiện nay, cà ràng được sử dụng nhiều trong các gia đình miền Nam
(trung tâm lớn của nó là Cái Răng – Cần Thơ) với nhiều công năng mới: gọn nhẹ,
dễ di chuyển và dễ đặt nó ở bất cứ nơi đâu và trong điều kiện nào. Sim lo là món canh nấu bằng bầu, lá bình
bát dây và được nêm bằng mắm bồ hóc
(prahok); ở đây người Việt mượn nguyên mẫu từ Khmer để sử dụng[8].
Cái nóp gắn với quân dân Nam Bộ thành
đồng; nóp cũng là từ Khmer còn giữ lại nguyên gốc (chuyển sang tiếng Việt bằng
phiên âm).
Ngoài việc giao lưu với người Khmer, người Việt cũng có giao
lưu với người Chăm, người Hoa. Ví dụ cụ thể là tiếng Việt ở nơi này có sự ảnh
hưởng của tiếng Chăm ở Ninh Thuận – Bình Thuận vào đây. Ảnh hưởng đó của tiếng
Chăm vào tiếng Việt ở đồng bằng sông Cửu Long được cụ thể qua bảng sau:
Tiếng Chăm Ninh Thuận
và Bình Thuận
|
Tiếng Việt ở đồng bằng sông Cửu Long
|
Cách thức hoạt động sản xuất
|
|
blang "sân, láng"
|
láng
|
c`hak`ăc "chà gặt"
|
chà gặt
|
karu(ng "rộng (cá)"
|
rộng (cá)
|
kruăk "(cá) rô"
|
(cá) rô
|
k`ai p`ô "cây vồ"
|
cây vồ
|
palao "đảo, cù lao"
|
cù lao
|
(pat`ai) p`hông "(lúa) đỏ"
|
(lúa) hồng ngự
|
rato(ng/ rito(ng"(cá) lòng
tong"
|
(cá) lòng tong
|
tiong"(chim) yểng"
|
(chim) nhồng
|
Cách thức ăn, mặc, ở, đi lại
|
|
chai "nhựa, tinh dầu, dầu
chai"
|
chai, dầu chai
|
đuơng "dòi"
|
đuông (ăn đọt dừa, cau, chà là)
|
karah "nhẫn"
|
cà rá
|
klek "(cái) trách"
|
trách
|
k`ai patok "cây chống xe"
|
cây tó
|
k`e "ghe, bè, đò"
|
ghe
|
k`lah "(cái) trã"
|
trã
|
k`ok om "niêu, nồi nhỏ"
|
om (nồi đất nhỏ)
|
lôi "bơi, lội"
|
lội
|
pro(ng "lớn"
|
(nước) rông
|
p`ăk "kéo"
|
bác (động tác chèo)
|
p`lu "(cái) lu"
|
lu
|
ratăng "cà tăng"
|
cà tăng
|
thro(k"vơi, rút, ròng,
rặc"
|
(nước) rặc
|
t`ăng "đứng, dừng"
|
(nước) nhửng
|
Cách thức tổ chức xã hội cổ
truyền
|
|
Chăm "Chàm, Chăm"
|
Chàm, Chăm
|
halai "(con) thứ hai trở
đi"
|
(con) rạ
|
kachua "(con) đầu lòng"
|
(con) so
|
kamay "đàn bà, nữ, gái"
|
(đàn ông) gà
mái
|
mưnuih"người"
|
nậu, nẩu
|
rak "hắc lào"
|
lác
|
takai"chân"
|
cẳng
|
Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
|
|
patao ia "thuỷ thần"
|
ma da
|
ikan,
|
(Đại) Càn (
|
Ngôn ngữ
|
|
băng "lần, lượt"
|
bận
|
bông "trắng, sạch"
|
(trắng, sạch) bong
|
bông baik "sạch sành sanh"
|
(sạch) bách
|
haluh, luh "cùn, mòn"
|
lụt
|
khiăk "cháy, khét"
|
khét
|
k`alè(c "cù"
|
cù léc, chọc léc, thọc léc
|
k`amrằm "quạu quọ"
|
càm ràm
|
k`anik "chật, hẹp"
|
(chật) ních
|
k`at "gạt, dối, lừa"
|
gạt
|
k`inòng "giận"
|
(giận, tức) cành
hông
|
k`ơng"(già) khằn"
|
(già) khằn
|
miêt"mãi"
|
miết
|
nek"né, tránh"
|
né
|
praih praih, kraih kraih "rỉ rả, rả rích"
|
lai rai
|
p`arằng p`arằng "mọi vật, mọi sự"
|
(trăm thứ) bà
rằng, hằm bà lằng
|
ralô panôik "ba hoa, lắm
chuyện"
|
bô lô ba la
|
re ro"rón rén, lân la, lò
mò"
|
rị mọ
|
rik "kéo cho khít"
|
(khít) rịch
|
ri(k "cổ, xưa"
|
(cũ) rích
|
ro ro "trơn tru"
|
ro ro
|
s`ao rào"chộn rộn, xôn xao"
|
chạo rạo, chộn rộn
|
t`ăng săng "đứng sững"
|
đứng chựng
|
Ngoài giao lưu với
người Chăm, người Việt giao lưu với người Hoa. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần
cho phép 2 đoàn di thần của nhà Minh (Trung Quốc) do Dương Ngạn Địch (Quảng
Tây) khai phá vùng lưu vực sông Tiền (lập ra Mỹ Tho đại phố) và Trần Thượng
Xuyên (Quảng Đông) vào khai phá vùng Cù Lao phố (Biên Hòa – Đồng Nai). Năm
1708, Mạc Cửu của Quảng Đông sau một thời gian ở Chân Lạp, khai phá đất Sài Mạt
lập thành Hà Tiên, đã chủ động dâng Hà Tiên lên chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn ưng
thuận, đổi thành trấn Hà Tiên và cho ông này làm Tổng trấn, cho phép ông này
chiêu mộ dân vào khai phá. Thời Mạc Cửu và con trai là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc
Thiên Tích), Hà Tiên trở thành thương cảng sầm uất, là nơi di dân người Hoa bất
mãn triều đình chạy về đây định cư, buôn bán. Dưới sự bảo trợ của Chúa Nguyễn
và sự giúp đỡ của cư dân Việt định cư lâu đời, người Hoa đã chủ động sống hòa
nhập vào người Việt; và ngôn ngữ của họ - tiếng Hoa – có ảnh hưởng khá mạnh và
hiện diện trong tiếng Việt. Trên thực tế, người ta đã tìm thấy những từ như vậy
và những từ đó tồn tại khá nhiều trong văn phong nói của các dân tộc, chẳng hạn
như các từ lì-xì, xính xái, xí mụi, thèo lèo, tài công, tằng khạo… Thèo lèo (茶料) là món kẹo ăn kèm
với trà. Âm Hán Việt là trà liệu. Người Việt Nam nghe người Hoa kiều Triều Châu
phát âm nghe như tề liếu/tề léo nên phiên thành thèo lèo. Kẹo thèo lèo được dùng trong dịp lễ hội, lễ Tết Nguyên
đán, Tết ông Táo…. Lì xì là tục lệ mừng tuổi của trẻ em ở Nam Bộ nói riêng và Đông Nam
Á nói chung. Từ nguyên của nó xuất phát từ chữ
利市 (lợi thị) trong tiếng Trung, người Việt phiên âm là lì
shì, có nhiều nghĩa: lời lãi thu được từ buôn bán; điều tốt lành, có lợi;
vận tốt và vận may[10].
Lì xì dù hiểu theo nghĩa nào đi chăng nữa, nó vẫn hiểu theo nghĩa là được lợi,
được điềm lành và may mắn; tiền lì xì chính là tiền mừng tuổi, đem lại cái điềm
lành, may mắn và hên cho trẻ con.
Dấu hiệu kế tiếp của sự giao thoa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác là
tiếng Việt luôn có sự vay mượn vốn từ của các ngôn ngữ khác trong khu vực, như vay mượn từ ngữ
Khmer, vay mượn từ ngữ Chăm. Người Việt thường khi vay mượn từ ngữ của mình,
thường tự động điều chỉnh sao cho phù hợp.
Ta xét trường
hợp tiếng Việt mượn ngôn ngữ Khmer. Về ngữ âm thì có một số từ Khmer được Việt
hóa thành từ thuần Việt như cái xà-rông
(sa-rông), cái cà-ràng (kran), một loại bếp (âng kran), cái cần xé (canh chê),
cái cù nèo (khveo), cà-om, một loại nồi đất (kơ-om), cái lọp để đánh cá (lop).
Một số từ mượn là cảnh thiên nhiên: cây thốt nốt (thnôt), bưng trong bưng biền
(bâng), vàm (piam), cá linh (trây linh), cá hô (trây hô), cây chùm ruột (căn
tuôt), cây tầm vông (ping pông), trái cà na (kna). Một số từ mượn là địa danh
gốc Khmer, ví du: Ba-thắc (tên cũ vùng đất ở miền sông Hậu và hữu ngạn sông
Hậu), tiếng Khmer là prêk basak. Ô
Môn (Srôk Ômô, nghĩa là xứ có nhiều cây ô môi). Với việc vay mượn ngôn từ của
tiếng Khmer, tiếng Việt ngày càng đa dạng và phong phú và đồng thời ngay cả
tiếng bản địa Khmer cũng ngày càng phong phú, đa dạng hơn về ngữ nghĩa, ngôn từ
và cách diễn đạt do sự tác động ngược trở lại của tiếng Việt. Như vậy, với sự
có mặt của tiếng Việt đã làm rõ khuynh hướng phát triển hội tụ giữa tiếng Khmer
với tiếng Việt, mà cụ thể hơn chính là tiếng Khmer xích lại gần hơn về phía
tiếng Việt. Tầm phát triển hội tụ này không chỉ tồn tại ở mảnh đất phía Nam Tổ
quốc mà có lẽ còn sang cả Campuchia[11].
Kế tiếp là
những từ mượn của tiếng Việt có gốc Trung Quốc nhưng nhiều nhất là gốc ở Quảng
Đông; cụ thể như món ăn: bò pía (bảo bỉnh là
loại bánh mỏng cuốn gói nhỏ với rau, tôm, thịt); lục tàu xá (lục đậu sa, tức là chè đậu xanh),
hủ tiếu (cốc điều), lạp xưởng (lạp trường)… Những từ thuộc về kinh doanh, giao
tiếp như: chạp phô (tiệm bán tạp hóa); chánh hẩu (chính hiệu); tẩm quất (đản
cốt)… Những từ Việt gốc Quảng Đông này được người Việt dùng vào sáng tác văn
thơ, ca dao, tục ngữ… và cả trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức
ghi nhận: người Việt ở Nam Bộ trò chuyện hàng ngày thường dùng chen từ Khmer,
từ Hoa và ông lập nguyên một cái bảng thống kê thì thấy số từ Việt gốc Hoa
nhiều đến hàng vạn chữ. Trong bài Văn đĩ tế chệt mỉa mai
những người Hoa tham gia cuộc binh biến Lê Văn Khôi ở thành Phiên An nửa đầu
thế kỷ XIX, một tác
giả người Việt ghi nhận: “Quan binh rung trống trận ba hồi, nghe dớn dác khự tố lô (khứ tẩu liễu – chạy đi thôi)
lập cập; Quan binh tống thiên oai một phát, nghe ầm ì xí ngầu lác (tử ngã liễu – chết tôi rồi) ngổn ngang”. Nhiều nhà
văn, nhà báo ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX đã sử dụng rất tự nhiên từ: hên xui, tàu
hủ, hủ tiếu, tiệm nước… trong các tác phẩm văn chương, các bài báo của mình[12].
Từ ngữ Việt gốc Hoa dùng nhiều trong ca dao, ví dụ câu:
Gió đưa chú tửng từng tưng
Gặp chị bán gừng na nả nị ơi
Câu ca dao
với cụm từ láy “tửng từng tưng”, “nả nị”, ẩn ám chỉ chú Tửng và cô Nả. Chữ
“Tửng” là âm tiếng Tiều của chữ “Đường”, và người Triều Châu tự xưng mình là
Tửng Náng (Đường nhân), lấy tên theo triều đại thịnh trị nhất Trung Quốc. Câu đầu của câu ca dao được hiểu là ngọn gió khởi lên
sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng) khi gặp gỡ cô gái “Nị”. “Nị” là
ngôi thứ hai theo âm Quảng Đông; “na” là chỉ người phụ nữ, được đặt cuối câu
tường thuật với ý chỉ: đấy, nhé. Câu ca dao nói lên hồn Việt, hồn Hoa hòa quyện
vào nhau, chú, tửng, chị, nị... chứa chan tình cảm phơi phới thông qua từ láy
“tửng từng tưng”, “na nả nị” quả là thần tình!
Dấu hiệu thứ ba là tiếng Việt có sự
giao thoa với ngôn ngữ bản địa về mặt ngữ pháp. Trường hợp đầu tiên là tiếp
xúc, giao thoa về ngữ pháp giữa tiếng Việt và tiếng Khmer. Trong luận án của
mình, TS Nguyễn Thị Huệ (Đại học Trà Vinh) cho rằng sự giao thoa giữa tiếng
Việt vào tiếng Khmer không dẫn tới sự thay đổi về ngữ pháp, và ngữ pháp Việt –
Khmer là hoàn toàn giống nhau. Bảng sau của luận án cho ta biết rõ điều này[13]:
Khmer chuẩn
|
Dịch từng
từ
|
Tiếng Việt
|
phtas ni
thmây
|
nhà-này-mới
|
nhà này mới
|
pi bây
thngai
|
một-vài-ngày
|
một vài
ngày
|
phtas tăng-ul
|
nhà-cả
|
cả ngôi nhà
|
mòn ch-rơn
|
gà-nhiều
|
nhiều con
gà
|
chêk pi snit
|
nải-hai-chuối
|
2 nải chuối
|
phtas thmây
đọp
|
nhà-mười-mới
|
10 nhà mới
|
Chúng ta thử
lấy vài ví ví dụ cụ thể. Ví dụ người Việt nói:
Sáng nay tôi đi thành phố Hồ Chí Minh
Người Khmer
cũng nói:
Phrức nis
khờ-nhôm tâu tiu khrôm Hồ Chí Minh
Nói thì nghe có vẻ là khác nhưng thực tế cấu trúc ngữ pháp và
trật tự từ trong câu đều không thay đổi. Về cấu trúc, tiếng Khmer luôn có danh
từ, tính từ và tính từ luôn đặt sau danh từ (tiếng Việt cũng giống như vậy,
tính từ đứng sau danh từ và theo một quy tắc chung). Trật tự từ trong câu thì
không thay đổi (giống tiếng Việt). Ví dụ: Nếu người Việt nói là con mèo trắng tức là danh từ (con mèo) đứng trước tính từ
(trắng) thì tiếng Khmer
cũng nói tương đương như vậy là jhma sā trong đó jhma là con mèo và sā là trắng[14]. Đặc biệt, tiếng
Khmer tương đồng với tiếng Việt ở chỗ là có số từ (số từ ở đây hiểu là từ chỉ số
lượng của một sự vật, hiện tượng được nói đến trong câu)[15].
Việc đặt ra số từ trong câu của tiếng Khmer có lẽ xuất phát từ tập quán chuyên
buôn bán của họ thời cổ -trung đại. Buôn bán của họ đã đặt ra yêu cầu tính
toán, viết chữ nhanh và gọn trong các văn bản ký kết giữa họ với người nước
ngoài; họ viết nhanh và gọn theo ngôn ngữ nói. Số từ hình thành trong câu có lẽ
cũng là ám chỉ số lượng của sự vật dươc nói trong câu. Tiếng Việt khi du nhập
vào đồng bằng sông Cửu Long, tiếp xúc với người Khmer ở vùng áp chót Tổ quốc
(Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang…), tiếp nhận được ít nhiều số từ của Khmer,
nhưng dùng khá phổ biến trong cộng đồng người Khmer nên tiếng Việt rất đa dạng.
Ví dụ câu tiếng Việt dùng số từ: Anh phải
trả cho tôi 20.000 đồng tiền cơm trưa. Phân tích câu này thì ta thấy, số từ
của tiếng Việt luôn đi liền với sự vật, hiện tượng (chỉ số lượng), câu nói này
dùng nhiều trong xã giao trong một quán cơm giữa người bán và người dùng. Câu
nói kiểu như thế này của người Việt thường thấy nhiều trong giao tiếp, buôn bán…
giữa người với người. Cấu trúc như thế nó sẽ ảnh hưởng nhiều tới việc nhấn âm,
cách viết chữ Khmer. Giống với người Việt, người Khmer có nhấn âm theo nguyên
tắc: Đối với từ 2 âm tiết
mà nguyên âm ở âm thứ nhất không phải là nguyên âm ngắn thì là phát âm đầu nhẹ
đi (có cảm giác như đặt thêm dấu huyền “`” trong tiếng Việt).
Mặc khác,
tiếng Việt cũng có sự giao thoa với tiếng Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. Người
Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long sinh sống ở hầu hết các tỉnh, nhưng tập trung
nhiều nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh, An Giang. Theo số liệu thống kê năm 2009 thì
người Chăm tập trung ở hai tỉnh này khá đông: Tp. Hồ Chí Minh (7.819 người) và
An Giang (14.209 người)[16];
mặc khác từ thời cổ - trung đại, người Chăm đã thành lập quốc gia rộng lớn tồn
tại suốt 17 thế kỷ (192 – 1832) trải rộng khắp ven biển miền Trung nên ít nhiều
có hoạt động buôn bán, hoạt động này đòi hỏi người Chăm phải viết chữ nhanh, do
đó chữ Chăm ra đời (giống với chữ Khmer). Về cấu trúc – ngôn từ, tiếng Chăm cổ
hầu như ít tài liệu ghi chép lại, nhưng đến khi người Việt vào khai phá và giao
lưu với họ, tài liệu về ngôn ngữ Chăm được ghi chép nhiều và in thành sách. Về
cấu trúc ngữ pháp của tiếng Chăm thì cũng giống như tiếng Khmer (nói ở phần
trên) đó là cấu trúc và trật tự từ của câu gần như không thay đổi. Ví dụ, người
Việt ta nói: Con kỳ nhông ăn cây dưa non,
thì người Chăm nói lại: ajah bbơng tamưkai[17].
Cấu trúc và trật từ từ không bị thay đổi (tính từ luôn đặt sau danh từ, có hoặc
không có số từ ở phía cuối câu). Có
lẽ cũng giống như người Khmer, người Chăm cũng sống ở miền ven biển, ít nhiều
tiếp thu văn hoá và ngôn ngữ biển nên cấu trúc ngữ pháp của nó mang đậm tính
ven biển. Mặc dù là tương đồng về cấu trúc và trật tự từ, nhưng chữ Chăm khác
nhiều chữ Việt về cách viết, cách đọc, cấu trúc âm tiết… Giống như tiếng Việt,
người Chăm viết chữ từ trái qua phải; về cách đọc thì do ảnh hưởng của tiếng
Việt cũng như các ngôn ngữ khác trước đó (tiếng Phạn, tiếng Thái…), tiếng Chăm
nhấn theo âm vị của phụ âm đầu (các phụ âm khác hầu như ít hoặc không nhấn),
tiếng Việt nhấn theo nguyên âm. Nét chữ của người Chăm chịu ảnh hưởng của người
Việt cũng có nét cong và nét thẳng, nhưng hướng viết thì khác nhau: người Chăm
viết chữ theo chiều kim đồng hồ và từ dưới lên; người Việt viết chữ ngược chiều
kim đồng hồ (chữ nét cong và chữ nét thẳng, chữ kết hợp nét cong và nét thẳng),
hướng chữ từ dưới lên.
Tóm lại qua
bài viết này, tác giả cũng đã phần nào khái quát được sự phát triển của tiếng
Việt khi du nhập vào Nam Bộ, cũng như quá trình giao thoa giữa tiếng Việt với
các ngôn ngữ khác ở đồng bằng sông Cửu Long (tiếng Chăm và tiếng Khmer). Theo
quy luật chung của lịch sử thì giao thoa (hay còn gọi là tiếp xúc) chính là quy
luật tất yếu của lịch sử phát triển của nhân loại (trong đó có cộng đồng người
Việt và các cộng đồng người khác ở đồng bằng sông Cửu Long), việc giao lưu sẽ
giúp các dân tộc học hỏi lẫn nhau, bổ sung những cái chưa có và tự phát triển
những cái đã có, góp phần làm cho ngôn ngữ đồng bằng sông Cửu Long thêm đa dạng
và phong phú. Các khuynh hướng phát
triển của tiếng Việt là: tiếp tục học hỏi về ngôn từ, chữ viết của các dân tộc
khác; thay đổi kết cấu, cách viết, cách dùng từ ngữ phù hợp với đại đa số người
dân có sử dụng ngôn ngữ này, và tác giả cũng hy vọng tiếng Việt, với tính đa
dạng và phong phú về vốn từ và ngữ pháp của nó, tiếng Việt sẽ sớm trở thành
ngôn ngữ thông dụng của nhân dân Việt Nam, và trong tương lai không xa thì nó
sẽ trở thành ngôn ngữ thông dụng và phổ biến nhất thế giới hiện đại.
Tài liệu tham khảo:
1.
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và
nhà ở trung ương (2010), Tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội,
6-2010.
2. Lý Tùng Hiếu (2011), Ngôn
ngữ - văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, NXBKHXH, Tp. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Thị Huệ (2011), Tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Khmer với tiếng
Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh), tóm tắt luận án Tiến sĩ, Đại học Trà Vinh.
4.
Cao
Tự Thanh (2000), “Những yếu tố gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ”, Tạp chí Hán – Nôm số 2 (43).
5.
Vương
Toàn (2011), Tiếng Việt trong tiếp xúc
ngôn ngữ từ giữa thế kỷ XIX, NXB Dân trí, Hà Nội.
6.
Phạm
Phúc Vĩnh (2013), Bài giảng lịch sử Việt
Nam từ nguyên thủy đến năm 1858 (lưu hành nội bộ), Đại học Sài Gòn, Tp. Hồ
Chí Minh.
[1]
Trong tham luận này, tác giả giới hạn quá trình giao thoa giữa tiếng Việt Nam Bộ
với các ngôn ngữ khác trong khu vực (tiếng Chăm, tiếng Khmer) trong giai đoạn
hiện nay. Vùng đất Nam Bộ nơi tác giả khảo sát về sự giao thoa ngôn ngữ là tập
trung ở các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (từ Tp. Hồ Chí Minh trở vào
Nam) gồm các tỉnh như Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Đồng Tháp… và
bài viết này chỉ khảo sát để tìm ra những điểm chung về giao thoa ngôn ngữ ở
vùng đất Nam Bộ (cụ thể là vùng đồng bằng song Cửu Long) từ đó khái quát, nhận
định về vấn đề này và có định hướng phát triển cho tương lai.
[2] Lý
Tùng Hiếu (2011), Ngôn ngữ - văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, NXBKHXH, tr.295.
[3]
Marx, Engels, Lenine (1962), Bàn về ngôn ngữ,
NXB Sự thật, tr.8
[4]
Trương Hữu Quýnh (2006), Đại cương lịch
sử Việt Nam ,
tập 1, NXB Giáo dục, tr.97.
[5]
Phạm Phúc Vĩnh (2013), Bài giảng lịch sử
Việt Nam
từ nguyên thủy đến năm 1858 (lưu hành nội bộ), Đại học Sài Gòn, tr. 9.
[6] Serway, Raymond A.; Jewett, John W. (2003), Physics for
Scientists and Engineers, Brooks/Cole.
[7]
Vương Toàn (2011), Tiếng Việt trong tiếp
xúc ngôn ngữ từ giữa thế kỷ XIX, NXB Dân trí, Hà Nội, tr. 87.
[8]
Trần Minh Thương (2012), Tiếng Việt gốc
Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở miền Tây Nam Bộ - nhìn từ góc độ ca dao,
xem : http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=3249%3Ating-vit-gc-khmer-trong-ngon-ng-binh-dan-min-tay-nam-b-nhin-t-goc-ca-dao&catid=71%3Angon-ng-hc&Itemid=107&lang=vi
[9]
Trên thực tế, tiếng Chăm có ảnh hưởng lớn cả Trung Bộ và Nam Bộ, nhưng do giới
hạn bài viết, tác giả thống kê chữ viết Chăm ở Nam Bộ. Bảng này trích theo Lý Tùng Hiếu & Lê Trung Hoa, Văn
hoá Việt Nam qua ngôn ngữ, giáo trình nội bộ, Khoa Văn hoá học, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, 2011.
[10] Hạo-nhiên Nghiêm Toản, Phiếm luận nhân tìm nghĩa hai
chữ “lì xì", Đặc san Xuân Danh-từ chuyên-môn số 9 tháng 1 năm 1975.
[11]
Nguyễn Đức Tồn (2011), Những vấn đề ngôn
ngữ học trên tạp chí ngôn ngữ học năm 2011, trang: http://www.vienngonnguhoc.gov.vn/?act=Library&do=Detail&nid=348
[12]
Cao Tự Thanh (2000), “Những yếu tố gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ”, Tạp chí Hán – Nôm số 2 (43), tr. 26 –
27.
[13]
Nguyễn Thị Huệ (2011), Tiếp xúc ngôn ngữ
giữa tiếng Khmer với tiếng Việt (trường hợp tỉnh Trà Vinh), tóm tắt luận án
Tiến sĩ, Đại học Trà Vinh, tr. 4.
[14]
Học tiếng Khmer: nguyên âm và trật từ từ trong tiếng Khmer, http://kklearnkhmer.wordpress.com/nguyen-am-va-trat-tu-tu-trong-tieng-khmer/
[15]
Gérard Diffloth (Đinh Lê Thư dịch), Tiếng
Khmer, Khoa Việt Nam học (ĐHKHXHNV – ĐHQG Hà Nội), http://www.vns.edu.vn/vns/images/stories/Bai_NCKH/33_DinhLeThu/17_dinhlethu.pdf
[16]
Ban chỉ đạo
Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương (2010), Tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội,
6-2010. bảng 5, tr. 134
[17]
Inrasara, Tự học tiếng Chăm: ngữ đoạn và cú đoạn trong câu, http://nguoicham.com/learning/index.php?option=com_content&view=article&id=110:ng-on&catid=34:bai-hc&Itemid=53
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét