Thứ Năm, 16 tháng 4, 2015

Đặc điểm và những ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường ở Hòa Bình

Đặc điểm và những ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường ở Hòa Bình
Tóm tắt 
Người Mường là một dân tộc sống ở vùng Tây Bắc Việt Nam, tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh nằm dọc sông Đà như Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái, Phú Thọ… Có chung nguồn gốc với người Việt (nhóm Việt – Mường) từ thời xa xưa, ngày nay người Mường đã tách hẳn khỏi nhóm này và phát triển mạnh, để lại nhiều thành tựu mà trong đó, ngôn ngữ là một thành tựu nổi bật nhất. Trong khuôn khổ của Hội thảo khoa học quốc gia về Ngôn ngữ và văn học vùng Tây Bắc, tham luận của tác giả sẽ trình bày về những đặc điểm về mặt ngữ âm của tiếng Mường, ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường ở tỉnh Hòa Bình. Tác giả mong muốn thông qua tham luận này sẽ đóng góp một phần nhỏ trong hệ thống ngôn ngữ của người Mường Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung; giáo dục thế hệ trẻ Sơn La có ý thức hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ bản địa của mình, góp công sức của mình trong việc xây dựng quê giàu đẹp, phù hợp với sự phát triển của đất nước hiện nay.
Đặt vấn đề
Người Mường là một dân tộc sống ở vùng Tây Bắc Việt Nam, tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh nằm dọc sông Đà như Hòa Bình, Sơn La, Yên Bái, Phú Thọ… Có chung nguồn gốc với người Việt (nhóm Việt – Mường) từ thời xa xưa, ngày nay người Mường đã tách hẳn khỏi nhóm này và phát triển mạnh, để lại nhiều thành tựu mà trong đó, ngôn ngữ là một thành tựu nổi bật nhất. Trong khuôn khổ của Hội thảo khoa học quốc gia về Ngôn ngữ và văn học vùng Tây Bắc, tham luận của tác giả sẽ trình bày về những đặc điểm về mặt ngữ âm của tiếng Mường, ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường ở tỉnh Hòa Bình. Tác giả mong muốn thông qua tham luận này sẽ đóng góp một phần nhỏ trong hệ thống ngôn ngữ của người Mường Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung; giáo dục thế hệ trẻ Sơn La có ý thức hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ bản địa của mình, góp công sức của mình trong việc xây dựng quê giàu đẹp, phù hợp với sự phát triển của đất nước hiện nay.
1.      Sơ lược về nguồn gốc và những đặc điểm của ngữ âm tiếng Mường
Người Mường (chữ Nôm: 𤞽 hoặc 𡙧) là một dân tộc thiểu số ở Tây Bắc Việt Nam, đông dân thứ nhì sau người Kinh (Việt) với khoảng 1.268.963 người (số liệu năm 2009). Tên “Mường” hiện đã trở thành tên gọi phổ biển của dân tộc này, song cũng chưa thỏa đáng. Theo nguyên tắc của dân tộc học, tên gọi dân tộc sẽ là tên tự xưng của dân tộc đó. Tuy nhiên trong thực tế, người Mường chẳng bao giờ gọi là “Mường” mà họ tự gọi mình là Mol, Mon, Mwon…, và người Việt phiên âm thành “Mọi”. Trong các tài liệu ở thế kỷ XVII – XVIII, người Việt thường dùng từ “Mọi” (sau này Pháp cũng thế) để chỉ các dân tộc thiểu số phía Bắc.
Về mặt ngôn ngữ, người Mường đã có một hệ thống ngôn ngữ từ lâu đời và lâu nay, người ta cũng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu và cặn kẽ. Vào thời Pháp thuộc cho tới hiện đại, nhiều học giả ngôn ngữ Pháp như Maspero, Ferlus, Barker, Haudricourt, Sokoluvskaya, Thompson…đến Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Văn Tài ở Việt Nam đã làm các cuộc khảo sát thực tế người Mường ở Hòa Bình, Thanh Hóa (nhiều nhất là Hòa Bình) và cho ra các tác phẩm có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Trong quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra nhiều vấn đề, nhất là vấn đề nguồn gốc tiếng Mường – làm nảy sinh các cuộc tranh luận giữa họ trong suốt thời gian dài. Chung quy lại, có 3 giả thuyết: giả thuyết thứ nhất của Maspero và Haudricourt cho rằng tiếng Mường – Việt là đồng nhất – chung nguồn gốc là Việt – Mường, tiếng Mường là một dạng của tiếng Việt cổ và nó có lưu lại nhiều nét của tiếng Việt cổ. Vì thế người ta gọi chung là tiếng Việt – Mường. Riêng Cuisinier trong tác phẩm của mình cũng nói là người Việt – Mường có chung nguồn gốc (về văn hóa vật chất – tinh thần) Giả thuyết thứ hai của Marneffe và Bezarcier cho rằng Việt Mường là hai bộ lạc có chung yếu tố nhân chủng là Tiền Việt, về sau mới tách thành 2 bộ lạc (dân tộc) riêng biệt.  Giả thuyết thứ ba của các nhà sử học Việt Nam như Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Đổng Chi…. đưa ra, người Việt và người Mường và người Việt vốn từ xưa là thuộc về 1 tổ tiên trực tiếp chung gọi là người Lạc Việt; trong khi người Tày, người Thái khi xưa chung một tổ tiên là người Tây Âu. Họ (người Việt – Mường) vốn cư trú lâu đời trên vùng núi và vẫn giữ văn hóa bản địa đặc sắc, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa từ trên xuống và văn hóa Ấn Độ từ dưới lên.
Theo nhiều tài liệu ghi nhận, tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường và biểu hiện cụ thể là nó sẽ giống nhau (gần như đồng nhất) về cấu trúc, âm vị lẫn các thanh âm. Xem bảng sau:
Tiếng Mường cổ
Tiếng Việt cổ
Mặt klơi
Mặt klăng
Mệ
Cái nhà
Cái Klôộc
Con ca
Con clu (con trâu)
Hệ đếm
Mo ếch, hai, pa, pốn, đăm, kháu….
Mặt blời
Mặt blăng
Cái, Mẹ (Con dại, cái mang)
Cái nhà
Cái trôốc (ăn trên ngồi trốc)
Con ca (con gà)
Con tlâu (con trâu)
Hệ đếm:
Một, hai, ba, bốn, năm, sáu…
Tiếng Mường hiện đại
Tiếng Việt hiện đại
Mặt klơi; Klơi tha (mặt trời mọc)
Mặt klăng
Máng
Cái trôốc
Con tru
Ca cáy (gà gáy)
Hệ đếm
Mo ếch, hai, pa, pốn, đăm, kháu….
Mặt blời
Mặt blăng
Cái, Mẹ (Con dại, cái mang)
Cái đầu
Con trâu
Gà gáy
Hệ đếm:
Một, hai, ba, bốn, năm, sáu…

Qua việc khảo sát, đối chiếu tiếng Mường ở nhiều địa phương khác nhau, chúng tôi thấy người Mường ở Hòa Bình, Thanh Hóa là tộc người Mường còn giữ nhiều yếu tố thuần Mường nhất. Từ ý kiến đó, chúng tôi nêu ra đặc điểm của ngữ âm Mường Hòa Bình như sau:
Thứ nhất, ngữ âm Mường Hòa Bình là loại ngữ âm mang đậm tính thuần Mường, nghĩa là nó mang đậm tính bản địa đặc sắc mà ít có một ngôn ngữ nào khác đạt được. Theo phân loại của Nguyễn Văn Tài (trước đó là Maspero) thì ngữ âm của người Mường Hòa Bình thuộc phương ngôn trung[1]. Đây là loại phương ngôn phân bố chủ yếu ở Hà Sơn Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam Ninh và Ba Vì (ngoại thành Hà Nội); đặc điểm chính là có 1 (không quá 2) cặp phụ âm và tỉ lệ từ thuần Mường cao nhất, mang đậm tính bản địa cao nhất của người Mường Hòa Bình mà không có sự pha tạp ngôn ngữ như tiếng Việt, Tày, Nùng…. Cụ thể về vốn từ vựng, để giữ gìn vốn từ của dân tộc thì người Mường dùng và giao tiếp, ứng xử bằng tiếng Mường. Để chỉ một hiện tượng tự nhiên, người Mường Hòa Bình dùng từ duy nhất: lơi tha (đúng ra phải đọc là Klơi tha) để chỉ hiện tượng mặt trời mọc. Còn người Việt (Kinh) chịu ảnh hưởng nhiều bên ngoài nên vốn từ của họ bị pha tạp, dẫn tới ngôn ngữ của người Việt rất phong phú, đa dạng. Để chỉ hiện tượng mặt trời mọc, họ không chỉ dùng những từ thuần Việt cố định như tang tảng sáng, tảng sáng mà họ còn pha thêm từ gốc Hán vào để phù hợp với ngữ cảnh khác nhau: bình minh, rạng đông, vừng hồng… tức là có yếu tố gốc Hán trong đó.
Thứ hai, về âm tiết (đơn vị cơ bản của từ) thì người Mường tuân theo cấu trúc chặt chẽ là: âm đầu + âm gốc + âm cuối và thanh điệu. Vị trí của các loại âm được xác định rõ ràng và mạch lạc, không lầm lẫn vào đâu được. Một nhà ngôn ngữ học Nga là Xolnsev nói vui rằng, trong ngôn ngữ đơn lập của tiếng Mường thì ông ví các âm vị trong âm tiết như những vị khách đi tàu với 1 cái vé, trong đó đã quy định phải ngồi vào tàu nào, toa nào. Nhưng với người Mường thì họ có xu hướng nói “bớt” âm, tức là họ lượt bỏ đi âm đầu và âm cuối mà Nguyễn Văn Tài gọi là “không phân xuất thêm âm tắc thanh hầu” (làm âm đầu trong các âm tiết như un3 (em), an3 (được)… và âm cuối zê-rô (trong âm tiết: ti1 (đi), le3 (lấy), no3 (nấu)…). Về âm đầu, sở dĩ có sự giản lược như thế là do hiện tượng “khép khe thanh” (phát âm làm chệch đi so với âm ban đầu), điều đó dẫn tới người Mường phát âm chệch đi, khác nhiều so với âm tiết mà tổ tiên họ đặt ra từ trước. Có lẽ, do ảnh hưởng của việc “khép khe thanh” từ việc cùng chung là tổ tiên thời xa xưa mà người Việt cũng có hiện tượng này, rõ rệt nhất ở miền Nam. Trong một bài viết gần đây về một nhân vật lịch sử ở miền Nam, chúng tôi có nhắc đến hiện tượng này (khép khe thanh) mà PGS Trần Hồng Liên gọi là “phát âm gần giống”; ví dụ chữ “Dun” (khô héo) đọc thành chữ “Dung” (nội dung).
Về hệ thống âm tiết, chúng tôi nói về các âm và đặc điểm sơ lược của nó. Về âm đầu trong tiếng Mường, chúng tôi thấy có 2 loại âm là “âm xa lạ” (khác Việt) và âm gần tiếng Việt và điều đó đã khiến nhiều người có sự nhầm lẫn khi họ nói tiếng Mường. Nguyễn Văn Tài thông qua khảo sát đã nhận thấy, sở dĩ có sự khác nhau này là do cách đọc của người Mường. Ông nhận thấy người Mường có hiện tượng “bật hơi nhẹ” khi đọc phụ âm /k’/; và kiểu “tái tạo xác mặt lưỡi” khi đọc phụ âm /t’/. Về âm gốc, người Mường đọc nguyên âm theo kiểu nhấn trọng âm – gần giống tiếng Việt. Với âm cuối, người Mường phát âm theo kiểu khép âm chặt (bộ máy phát âm đóng lại, có phụ âm tắc) và ngược lại; khả năng kết hợp của âm cuối với âm khác trong từ tùy thuộc vào vị trí âm vị và cấu âm. Trong thanh điệu Mường Hòa Bình, chúng tôi xem xét dựa trên âm vực cao – thấp, gãy – không gãy của âm điệu và gãy kiểu nào: kiểu đi lên, hay kiểu đi xuống. Theo GS Phạm Đức Dương, tiếng Mường có 5 thanh điệu (riêng tiếng của người Mường Bi – Hòa Bình là thể hiện đầy đủ nhất) và không có thanh ngã. Cái khác cơ bản đó là sự lẫn lộn giữa thanh ngang và thanh huyền; thanh ngang Việt tương ứng thanh huyền Mường và ngược lại. Ví dụ: trời = tlơi; cá = ca.
Hệ thống phụ âm của người Mường Hòa Bình khá đa dạng và phọng phú. Theo Hoàng Văn Ma và Phạm Đức Dương thì chính hệ thống phụ âm cuối rất đa dạng đã khiến tiếng Mường ngày càng phong phú hơn, mà tiếng Việt không có nữ. Đó là các phụ âm cuối –nh và –ch. Ví dụ: mònh = muốn; rồnh = rốn; mộch = một…. Hoàng Văn Ma trong tài liệu chuyên khảo thì cho biết cụ thể: ngoài những âm cuối tạo thành những cặp tương đồng liên đồng vị, tiếng Mường (cũng như các thứ tiếng khác) còn có các phụ âm cuối như âm lỏng /l/, âm rung / r / và âm xát họng / h /. Ngoài ra, GS Phạm Đức Dương trong quá trình so sánh tiếng Việt – Mường về mặt ngữ âm cho rằng, một điểm khác của tiếng Mường mà tiếng Việt không có đó là, tiếng Mường còn bảo lưu các phụ âm tl, hr (tlu = con trâu; tlai tlăm = trái tim) và ông cùng thấy hiện tượng này trong tiếng Quảng Bình (tlơn tlu tlắng tlẻo = trơn tru trắng trẻo).
Thứ ba, giống như tiếng Việt, ngữ âm tiếng Mường có đơn âm tiết và đa âm tiết. Lúc đầu do ít tiếp xúc bên ngoài nên người Mường Hòa Bình dùng từ đơn âm, như các từ /tlù/ (trâu) hay từ /un4/ (em). Chúng ta xem các tên đất, tên mường và tên người sẽ thấy rõ điều này. Ví dụ, tên mường: Mường Bi, mường Vang, mường Thàng… tên xóm: xóm Sào, Bưởi, Bo, Báy….. Người Việt cũng đặt tên làng y như Mường: làng Cót, làng Mọc, làng Láng…. Hiện tượng đa âm tiết cũng xuất hiện trong ngữ âm Mường Hòa Bình. Do xu hướng phát triển của cấu tạo từ, mà ngày nay chúng ta có thể tạm gọi tiếng Mường đang trên đường đa âm tiết hóa; mà hậu quả của việc này đó là sự cố gán ghép các từ căn – đơn âm tiết thành từ ghép đa âm tiết, hay nói ngắn gọn là từ ghép. Trong ngôn ngữ Mường, từ ghép xuất hiện khá nhiều nhưng người Mường lại ít khi sử dụng loại từ này. Về nguyên do, có thể người Mường rất “nhạy cảm” với các cảnh huống khác nhau khi muốn mở rộng nội hàm từ; từ ghép thì không có nghĩa. Về sau, do giao lưu với người Việt nên từ ghép đã xuất hiện, nhưng số lượng không nhiều. Ví dụ với từ đơn, người Mường sẽ tùy vào từng trường hợp mà có cách dùng phù hợp, thường là dùng từ đơn ghép với một từ khác để tạo thành từ mới (giống cách tái tạo từ ghép của người Việt). Nếu dùng từ đi kèm với từ đơn, người Mường sẽ dùng từ có vai trò là bổ ngữ để chỉ sự vật thôi; ví dụ với từ đơn là “đau” thì họ dùng các từ chỉ sự vật để bổ nghĩa cho từ đơn như: đau tay, đau đầu, đau chân…..; chứ không dùng từ đơn Mường để ghép với các từ chỉ trạng thái của sự vật như: đau khổ, đau thương, đau lòng, đau đáu… Người Mường có từ láy đôi (từ láy dùng 2 tiếng) – dùng rất phổ biến trong tiếng Mường mà cố GS Hoàng Văn Hành đã đề cập trong bài viết năm 1998[2].
Thứ tư, về ngữ pháp thì ngữ âm Mường tuân theo trật từ từ cố định (chủ - vị - bổ ngữ) như tiếng Việt, tiếng Anh và không được thay đổi. Nếu có sự thay đổi về vị trí  thì ý nghĩa của câu sẽ thay đổi hoặc khác nghĩa hoàn toàn hoặc trở nên vô nghĩa. Hư từ là loại từ bắt buộc có trong hệ thống ngữ pháp tiếng Mường, có nguồn gốc từ những từ thực chuyển thành và có 2 dạng: dạng đầu tiên bắt nguồn từ động từ, nhóm còn lại là bắt nguồn từ danh từ, tính từ. Hoạt động của từ hư có nhiều loại, nhưng chủ yếu là loại hướng về ngữ pháp mà thôi (không thể độc lập tạo nên câu). Có một số từ hư vốn có ý nghĩa từ vựng, có thể độc lập tạo nên thành phần câu, nhưng trong cấu trúc nhất định thì lại có ý nghĩa ngữ pháp và hoạt động như từ hư. Một điểm khá đặc biệt, gần giống tiếng Việt đó là trạng ngữ trong ngữ âm Mường là tự do, không có vị trí cố định nào. Chúng ta cũng còn nhớ lại, ở THCS và THPT thì trạng ngữ trong ngữ âm Việt luôn đứng đầu câu, trước chủ ngữ; trong vài trường hợp đặc biệt thì có thể nó ở giữa câu, hoặc cuối câu (tỷ lệ không nhiều). Trạng ngữ của tiếng Mường còn hơn như thế, khi nó đứng tự do ở bất cứ vị trí nào của câu, kết nối vào câu tạo thành câu có ý nghĩa. So sánh như vậy, chúng ta thấy phần nào sự giống và khác nhau giữa tiếng Mường với tiếng Việt, tiếng nói của các dân tộc thiểu số khác cũng về mặt ngữ pháp. Trong luận án tiến sĩ, Nguyễn Thị Huệ nhận định rằng về cầu trúc và ngữ pháp, tiếng Khmer không khác tiếng Việt là mấy – giống nhau về cấu trúc, ngữ pháp; song ở tiếng Mường thì người ta có cảm giác là không có sự hiện diện của danh từ, tính từ như tiếng Việt, Khmer; càng không thấy sự hiện diện của số từ như Khmer, tiếng Chăm (số từ có thể có hoặc không). Thiếu sót này của tiếng Mường là điều dễ hiểu, vì tiếng Mường ra đời muộn – khoảng cuối thế kỷ XIX đấu thế kỷ XX, khi những người Pháp đầu tiên như Maspero, Haudricourt đến khảo sát Hòa Bình. Nó ra đời muộn, và hình thức đầu tiên sẽ là nói – sau mới tới viết. Và bảng chữ cái tiếng Mường cũng hình thành muộn, muộn hơn nhiều so với tiếng Tày – Thái, Dao… vốn ra đời từ lâu, có hệ thống ngữ âm ổn định và ngữ pháp rất tốt. Một thiếu sót nữa là nhiều người nghiên cứu không biết người Mường viết chữ theo hướng nào ? Trái – phải hay Phải – trái ? Đó là vấn đề cần được làm sáng tỏ trong buổi Hội thảo này.
2.      Ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường Hòa Bình
Nói về ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường tới văn hóa ứng xử của người Mường Hòa Bình, người viết sẽ đề cập đến văn hóa ứng xử (có chỗ nói là văn hóa giao tiếp) của người Mường có sự hiện diện rõ ràng của ngữ âm tiếng Mường ở tỉnh Hòa Bình. Theo ý kiến của tác giả, ngữ âm Mường có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa ứng xử thể hiện ở những vấn đề sau:
Một là vấn đề giao tiếp (gọi là nói chuyện). Do vốn ngôn từ khá phong phú nên người Mường Hòa Bình giao tiếp rất từ tốn và nhẹ nhàng với nhau, thể hiện qua lời chào hỏi – chuẩn mực của người Mường khi họ bắt đầu cuộc nói chuyện. Theo phong tục, khi gặp nhau thì mỗi người Mường đều phải chào hỏi. Điều đó thể hiện rõ cái lý: “Đối mặt thì phải mở miệng” không thể làm người câm. Khi ở trong rừng, đối mặt với những nguy hiểm có thể xảy ra thì họ cũng chào. Họ chào và cầu khấn trời đất mong mình khỏe mạnh, bình an. Khi họ về nhà, người Mường được người thân trong nhà chào trước rồi mình mới chào lại. Ví dụ, khi gia đình người Mường có người thân về nhà, những người trong nhà sẽ chào đón trước với lời chào thân thương: “Con đã về đấy con?”,Chú thả bừa về rồi à?”; người chào lại: “Chào, bố, mẹ, chú, bác, cô, dì...) đã về ạ! Với người xung quanh, người Mường chào xã giao, kèm thăm hỏi với ý thân mật và họ dùng lời nói khi chào rất hợp tình, hợp cảnh. Có 2 kiểu chào với người xung quanh: chào với người lớn tuổi và chào với người nhỏ tuổi. Chào với người lớn tuổi thì chào với giọng điệu thân mật, từ tốn nhưng không kém phần oai nghiêm của người cao (lớn) với người thấp[3]. Còn chào theo kiểu thứ hai như thế nào, không thấy tài liệu ghi chép lại. Khi làng Mường hay ở ngôi nhà của gia đình người Mường nào có sự kiện quan trọng, mọi người xung quanh được tới chào hỏi thân chủ với lời nói xã giao, vồn vã, thịnh tình rằng: “Gia chủ tôi kính mời ông, bà, chú, bác, các anh, các chị, các quý vị khách gần, khách xa, đã mở lòng đến cửa, đến nhà - xin hãy vào nâng chén rượu nhạt với gia chủ chúng tôi. Một chén rượu ấm hơi rồi ăn cơm nắm, cơm muối cho rộng đường đi, lối lại. Dạ dạ kính chào! Kính mời!...”. 
Khi bắt đầu nói chuyện, người Mường nói chuyện nhẹ nhàng, từ tốn mà không làm ảnh hưởng đến những người xung quanh. Trong gia đình, mọi người đối xử và sử dụng ngôn ngữ giao tiếp rất bình đẳng. Khi gia đình Mường nào mới cưới dâu về, người con dâu được bà mẹ chồng đối xử, ứng xử rất đặc biệt vì người này chính là người sẽ nuôi mình khi tuổi già. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu bước chân về nhà chồng, để thể hiện sự quan tâm, yêu thương con dâu, mẹ chồng cùng gia đình dặn dò con dâu từ lời ăn tiếng nói, từ cách đi đứng cư xử với gia đình hàng xóm. Với người xung quanh thì họ tiếp đón niềm nở, chào hỏi và nói chuyện rất thân mật. Bàn luận về một vấn đề gì, họ thường nói rất cụ thể, rõ ràng chứ không có nói chung chung – đại loại như các dân tộc khác. Do tư duy trừu tượng chưa phát triển và các từ nhằm biểu đạt các định nghĩa, khái niệm chưa có nên trong khi nói chuyện, người Mường không có lối nói ẩn dụ, xa xôi mà thường nói cụ thể. Nhưng cái cụ thể trong tiếng Mường lại là cái cụ thể tương đối.
Ví dụ: Khi hỏi từ nhà mình ra đấy bao xa ? Người được hỏi sẽ trả lời rằng: Không xa đâu. Vài quăng dao thôi.
Vài quăng dao là bao nhiêu, người ta không xác định được. Chúng ta nhớ lại thời kỳ chế độ lang đạo Mường, người Mường xưa khi chia đất thì họ sẽ ném con dao ra xa. Dao rơi tới đâu, phần đất được chia đến đó. Tục quăng dao chia đất cũng tồn tại trong người Việt, nhưng ít. Cư dân Việt truyền khẩu với nhau truyền thuyết “thác đao điền” đầu thời Lý, gắn liền với nhân vật Lê Phụng Hiểu. Ông sinh ở Thanh Hóa, nổi tiếng với sức khỏe phi thường. Ra làm quan, ông có công lớn trong việc dẹp loạn Tam vương (1028) và đánh Chiêm Thành. Dẹp xong nước Chiêm, vua muốn thưởng cho ông nhưng ông trở về quê, xin vua đứng trên núi Băng Sơn ném đao, đao đi xa đến đâu lấy làm đất biệt nghiệp đến đấy. Sử kể lại rằng đao đi xa đến hơn mười dặm. Từ đó, người vùng Thanh Hóa gọi ruộng thưởng công là “ruộng thác đao”. Như vậy trong khi giao tiếp, người Mường chỉ nói cái cụ thể để chỉ cái cụ thể, mặc dù cái cụ thể đó mang tính tương đối.
Hiện nay, do xu thế đổi mới đất nước nên cách giao tiếp của người Mường thay đổi rõ rệt. Theo chủ trương của Nhà nước, nhiều gia đình Mường Hòa Bình đã học luôn tiếng Việt song song với tiếng mẹ đẻ, coi như ngôn ngữ thứ hai trong giao tiếp. Theo Nguyễn Văn Tài (1982) thì có khoảng 90% người Mường giao tiếp bằng tiếng Việt. Một số cuộc khảo sát không lâu của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Văn Khang, Phạm Tất Thắng đã chứng minh chuẩn xác nhận định của Nguyễn Văn Tài. Theo 2 ông, năng lực sử dụng tiếng Việt giữa người Mường (nam – nữ) là không gì khác biệt. Khảo sát 266 người Mường ở Mường Còi (128 nữ, 138 nam), Phạm Tất Thắng cho ra con số thống kê: 98,4% nữ; 97,1% nam người Mường biết tiếng Việt. Lý giải việc này, Phạm Tất Thắng cho rằng chính hoạt động ở chợ là nguồn gốc cho việc người Mường biết và giao tiếp tiếng Việt sõi hơn. Ở các trường học, Nguyễn Văn Khang cũng khảo sát số lượng học sinh nói tiếng Mường và ông cho ra kết quả: ở cấp mẫu giáo thì số trẻ biết tiếng Việt rất ít, tiếng Mường nhiều (95%) nhưng đến cấp 1 và các cấp học sau, số học sinh biết tiếng Việt tăng mạnh, từ 80 – 95%. Số lượng thầy cô giáo dạy ở người Mường khác biệt theo tỉ lệ ¼ - 1/9 (cứ một giao viên Mường thì có 3 – 19 giáo viên Kinh (Việt), điều đó chứng tỏ tiếng Việt dần “lấn át” tiếng Mường để trở thành công cụ giao tiếp chính. Tuy nhiên để có thể dạy tiếng Mường, nhiều giáo viên Việt phải tự học – tự giao tiếp và tìm hiểu văn hóa Mường, khi đó họ sẽ hiểu rõ người Mường và có cách dạy tốt hơn.
Hai là cách xưng hô. Người Mường xưa sống trong chế độ lang đạo với tính đẳng cấp khắc nghiệt và nặng nề. Thời lang đạo, người bình dân Mường đều gọi người cai quản đất đai Mường là lang (hay jân – từ dùng của GS Từ Chi). Trong mường, xóm thì quan lang cai trị thường là người thuộc các dòng họ như Đinh Công, Bạch Công…., đóng thủ phủ ở Chiềng (nhà chung của mường). Dưới mường (đơn vị hành chính cao nhất) là xóm, đứng đầu là các tạo hay còn gọi là Lang Tạo (Lang Đạo), nói rõ là Tao Tuúp (Đạo Đúp, tức Lang Đạo xóm Đúp). Khác với người Thái, xóm của người Mường chỉ có người Mường, không có các dân tộc khác. Bình dân Mường thì bị gọi là Âu Eng (người được nhiều ruộng) và Âu Ún (nhận ít ruộng, tay sai của Lang và Âu Eng) có ít nhiều quyền lợi, song phải lao dịch, cống nộp cho lang mường. Tài liệu khác của Bùi Xuân Đính lại ghi bình dân Mường là « nhà nóc ». Tầng lớp dưới đáy xã hội Mường là Tứa Roong (hay Nóc Trọi), không ruộng đất và làm không công cho bọn quan lang, lang đạo; bị áp bức nặng nề. Cách xưng hô thời đó rất khắc nghiệt : người cấp dưới (cấp thấp) khi gặp quan lang, lang đạo đều phải chào, cúi người sát đất và làm những việc mà quan lang, lang đạo sai bảo. Mặc dù bị cảnh chèn ép, đối xử khinh miệt như thế ; nhưng vì lối sống phóng khoáng nên có lúc người bình dân chơi lại, « nện » cho bọn quan lang đòn đau để chúng bớt hách dịch, nhũng nhiễu. Trong kho tàng văn học dân gian Mường, có những câu chuyện do người dân Mường đặt ra để chế giễu bọn quan lang tham lam, như chuyện chàng Cuội và Ót È. Bằng trí thông minh sắc sảo (qua các câu chuyện truyền miệng dân gian), các nhân vật này đã thay mặt người dân Mường tố cáo bọn quan lang tàn bạo, tham lam[4].
Sau khi giành độc lập, người Mường sống bình đẳng nên cách xưng hô có phần bình đẳng hơn trước. Người lớn – trẻ con xưng hô tuy theo vị trí cao – thấp nhưng vẫn bình đẳng ; giọng điệu tình cảm và không có gay gắt như thời lang đạo. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, người Mẹ trong gia đình được gọi là Mế và được con cái xưng hô là con – Mế thể hiện sự kính trọng bậc bề trên của người dưới. Họ cũng tự gọi – tự xưng là người Mường, là dân tộc thiểu số trong đại các dân tộc Việt Nam, thay vì tên « Mọi » như trước kia bọn thực dân, lang đạo rêu rao.
Ba là lời hát. Thực vậy, hát là một trong những phương tiện chính của tiếng Mường. Người ta dùng tiếng Mường không đơn thuần chỉ giao tiếp, mà còn để hát hò, ca nhạc giải khuây sau những ngày làm việc mệt nhọc. Trong tư liệu văn hóa dân gian của người Mường Hòa Bình (cũng như người Mường Thanh Hóa), tư liệu về ca múa nhạc có vị trí quan trọng. Từ bé đến khi trưởng thành, người Mường không ai có thể quên được nghệ thuật hát xường của họ. Hát xường không biết ra đời khi nào, nhưng in đậm trong tâm trí của người Mường từ xa xưa. Khi làm việc xong, để giải trí thì trai gái người Mường hát :
Đêm nay anh lắng em xường
Nghe chưa liền anh đường cố chấp
Em xường chưa liền khúc anh chớ có cười
Hát cho vui áng hát cho rạng đêm”.
Tiếng hát cứ thế lửng lơ từ làng này sang làng khác, từ mái nhà này sang mái nhà khác và hát suốt đêm cho tới sáng thì thôi. Giữa ánh đuốc, trai gái Mường vừa hát vừa tự do tìm hiểu nhau ; người già trong làng cùng với khách thập phương thì đánh giá độ tinh của tay xường. Khi tìm hiểu nhau và cũng muốn tới hôn nhân, người con trai sẽ nói với bạn gái của mình rằng “hlo hao rla”, nghĩa là: anh thích em, anh muốn em và nếu như người con gái đồng ý họ sẽ nên đôi lứa, vợ chồng.
Ngoài hát xường, người Mường còn có thể loại dân ca khác như : Hát xắc bùa thường xuất hiện vào dịp tết, lễ hội, cưới xin, các cuộc vui... với lời hát chủ yếu là chúc mừng, ca ngợi. Hát thường rang là thể loại dân ca được ca diễn xướng trong các dịp vui như mừng nhà mới, được mùa, cưới xin, lễ, tết. Hát thường rang khi ca ngợi công việc làm ăn, cách ứng xử giao tiếp, răn dạy con cái, dặn người yêu, người thân. Hát bộ mẹng là cách hát đối đáp bộc phát trong tiệc rượu cần, trong hội hè, bên bếp lửa nhà sàn, cây đa, bến nước... Còn hát ví đúm (hay còn gọi là hát đúm) là hình thức hát giao duyên trao đổi tâm tư, tình cảm, chủ yếu dành cho những chàng trai, cô gái Mường bởi đó là giai điệu của tình yêu, thường diễn ra vào ngày hội xuân. Tóm lại, từ những luận cứ trên cho thấy, ngữ âm Mường ảnh hưởng sâu sắc đến ứng xử xung quanh và đặc biệt là ca hát. Người Mường khi ca hát thì họ vận dụng vốn ngôn từ Mường bản địa để hát, tùy theo tâm trạng và ngữ cảnh mà hát cho phù hợp. Lời hát của họ lúc cao, bổng; lúc trầm và thấp thể hiện sâu sắc tâm trạng của họ;  diễn đạt các ý muốn của bản thân ngắn gọn, cô đọng và chân thành. Trong phát ngôn, họ không bao giờ quên đi vai vế trong gia đình, dòng tộc của mình. Dường như sử dụng ngôn ngữ, tiếng nói dân tộc mình để cùng trao đổi, cùng bàn luận, người Mường cảm nhận được sự gần gũi, gắn bó chặt chẽ hơn.
Kết luận
Tóm lại qua bài tham luận này, tác giả khái quát được nguồn gốc, đặc điểm cũng như ảnh hưởng của ngữ âm tiếng Mường đến văn hóa ứng xử của người Mường Hòa Bình. Điều đó cho thấy, tiếng Mường mặt dù sinh sau đẻ muộn, nhưng vẫn phát triển và hiện đã trở thành ngôn ngữ chính thống của người Mường. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau nên tiếng Mường có xu hướng mai một đi, mất dần. Biện pháp nào được đưa ra để bảo tồn ngôn ngữ này ? Theo tác giả thì có nhiều cách: điều tra việc sử dụng ngôn ngữ thông qua khảo sát, phỏng vấn về mức độ biết tiếng Mường của họ; dạy học bằng tiếng Mường truyền thống và hơn nữa, Nguyễn Văn Tài có đề cập là người ta sẽ lập ra bảng phiên âm tiếng Mường chứ không phải chữ viết, giúp người Mường học tập tốt hơn, góp phần bảo tồn và phát triển tiếng Mường thật mạnh mẽ, đa dạng.
Tài liệu tham khảo:
1.      Đảng bộ Hòa Bình (2011), Phong phú kho tàng văn học, nghệ thuật dân gian các dân tộc tỉnh Hòa Bình, báo điện tử Hòa Bình.
2.      Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người Việt Nam – giáo trình cho SV ngành Việt Nam học, Nxb Thời đại, Hà Nội.
3.      Nguyễn Hải (2011), Tản mạn văn hóa Mường Hòa Bình, Nxb Thông tin truyền thông, Hà Nội.
4.      Mai Hoa (2012), “Làm gì để giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc Mường ?”, bảo điện tử Hòa Bình.
5.      Nguyễn Hồng (2013), Nét đẹp dân ca Mường Vang, báo điện tử Hòa Bình.
6.      Nhiều tác giả (2002), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7.      Hoàng Văn Ma (2002), Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam: Một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại hình học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8.      Nguyễn Văn Tài (1982), Ngữ âm tiếng Mường qua các phương ngôn, luận án phó tiến sĩ, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.
9.      Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại, NXB Giáo dục Hà Nội.
10. Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Hội khoa học lịch sử Việt Nam Hà Nội.
11. Trần Quốc Vượng (2013), “Một vài nhận xét về mối quan hệ Mường Việt và quá trình phân hóa giữa tộc Mường và tộc Việt”, tư liệu nội bộ khoa Sử - DH KHXHNV, DHQG Hà Nội.




[1] Trong luận án phó tiến sĩ về vấn đề tiếng Mường Hòa Bình, Nguyễn Văn Tài đã phân chia ngôn ngữ Mường thành 3 nhóm phương ngôn:
+ Phương ngôn Bắc: chủ yếu là thổ ngữ ở Phù Yên, Sơn La và Hoàng Liên Sơn; đặc điểm chính là có sự phong phú của cặp phụ âm và ảnh hưởng của tiếng Thái.
+ Phương ngôn Trung: chủ yếu là thổ ngữ ở Hà Sơn Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam Ninh và Ba Vì (ngoại thành Hà Nội); đặc điểm chính là có 1 (không quá 2) cặp phụ âm và tỉ lệ từ thuần Mường cao nhất.
+ Phương ngôn Nam: xuất hiện ở vùng Nghệ - Tĩnh, Thừa Thiên Huế. Đặc trưng là sự mất đi các cặp phụ âm và tính đa dạng trong sự dung hợp với tiếng Khmer, tiếng Chứt, tiếng Thổ…ở miền Trung.

[2]  Người đọc có thể xem lại trong: Hoàng Văn Hành (1998), “Từ láy đôi trong tiếng Mường”, Ngôn ngữ. - 1998. - số 1. - tr.: 27-38. 
[3] Ví dụ, trong cảnh tôi gặp anh – anh gặp bác – chú gặp cháu – bà gặp cháu – tôi gặp chú thím... thì có câu chào thắm thiết rằng: “Cháo eng, eng à! ở dừa! Lô mưa, lô ngáy lằm dừa! Trúa nhá ha cón lằng, noống cá váy? Nhá nhoỏ, nhá náy cól mảch mẻe cả noống? Toông ná năm nay coò khầm khà?... (Dịch: Chào anh ạ! Ôi thật là xa nhau đã quá lâu lắm rồi nhỉ? Thế sức khỏe nhà dưới, nhà trên, nhà to, nhà nhỏ bên ấy đều mạnh khỏe cả chứ? đồng ruộng năm nay có tốt vượt không?
Khách trả lời lại rằng: “Dạ dạ cườn xiềng cháo ùn eng, lô mửa, lô ngáy poi xăm tà nhờ. Nhá tìl, nhá trêng, nhá nhoó, nhá náy cón rêng lớng lớng. Tống ná chân quê í tang pổ hài... (Dịch: Dạ! Vâng! Xin nhận lời chào anh em lâu ngày hỏi thăm đỡ nhớ. Thưa rằng: nhà dưới, nhà trên, nhà nhỏ, nhà lớn, mọi người đều khỏe, vui. Đồng ruộng xóm quê đang vào mùa động hái...).

[4] Có thể dẫn chứng bằng các câu chuyện sau:
Truyện Ót È: Trong truyện Hai lần lang phải chịu thua Ót È, Ót È thông minh, khéo léo, lừa lang một mẻ vừa bị đi xa, len lỏi ở trong rừng, vừa bị bẩn, bị rách hết quần áo do gai góc cào vào chỉ vì lang tham muốn đi săn được con chõng cùn (một loài thú rừng). Lần khác, Ót È lại làm lang một mẻ hết hồn chạy nháo nhào kéo theo cái sanh gãy vì sợ hổ vồ mà lang vẫn phải trả cho Ót È một con bò. Tương tự như vậy là một loạt các truyện khác như Mười hai ông cai nà hổn hà hổn hển, Nứa sống bỗng thành nứa chết, Bắt trộm lợn to, đền cho lợn bé…

Bên cạnh Ót È là một chàng Cuội vừa thông minh, dí dỏm mà lại vừa sắc sảo. Cuội nghĩ ra được đủ trỏ để nhạo báng, lừa, lỡm các quan lang cùng các ậu tay sai thân cận của nhà lang. Chẳng hạn như chuyện Chó Keo, với câu “ăng ẳng văng kẹo tao ăn”, Cuội đã lỡm tên ậu phải mua Cuội con chó khi kêu ăng ẳng văng ra kẹo, để Cuội thì có được một khoản tiền lờn, còn ậu thì cay đắng mua được con chó cún. Trong truyện Gậy tổ tiên, Cuội lại lừa nhà lang để lấu được một mẫu ruộng, nhà mới, trâu cày mà quan lang chỉ được một cây củi vô hồn, tuy thế vẫn không làm gì được Cuội. Tương tự như vậy, bằng trí thông minh của mình, Cuội còn lừa lang được nhiều vố khác, mỗi lần một cay cú hơn, từ việc bán cho lang cả một đàn vịt (Chăn vịt trời) đến việc lấy được vợ nàng của lang (Cuội lấy vợ nàng).

Một số giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững của làng nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Một số giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững của làng nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)
Thái Nguyễn Đức Minh Quân - bài viết Hội thảo "Làng nghề và du lịch"
Đặt vấn đề:
Lái Thiêu – vùng đất nổi tiếng ở Nam Bộ với nhiều loại trái cây miệt vườn, đặc biệt nhất là trái sầu riêng, chôm chôm, vú sữa…từ lâu đã thu hút không ít khách từ khắp nơi xuống tham quan và du lịch. Không chỉ nổi tiếng về vườn cây ăn trái, Lái Thiêu còn nổi tiếng với nghề làm gốm – vốn xuất hiện ở nơi đây từ 1 thế kỷ trước. Trải qua một quá trình hình thành, phát triển thì nghề gốm Lái Thiêu đã phát triển mạnh, tạo ra được nhiều sản phẩm gốm với nhiều chủng loại (bếp gốm, bình gốm, chum, vại…), mẫu mã và hoa văn đa dạng và phong phú; thu hút sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân trong nước và nước ngoài. Hiện nay, nghề gốm Lái Thiêu dù đã trải qua một thời gian dài phát triển, đạt nhiều thành tựu nhưng đâu đó vẫn còn nhiều khiếm khuyết, bất cập. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa ở Bình Dương cũng làm cho làng gốm Lái Thiêu dần suy sụp. Vậy chúng ta cần làm gì để vực dậy lại làng gốm Lái Thiêu ? Đâu là những giải pháp chính cho vấn đề này ? Trong khuôn khổ của Hội thảo quốc tế về làng nghề du lịch Việt Nam, tham luận của tôi trình bày khái lược về lịch sử hình thành, phát triển của làng gốm; nêu ra thực trạng và đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển làng gốm Lái Thiêu.
1.      Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của làng gốm Lái Thiêu
Ngược dòng lịch sử, làng gốm xuất hiện vào thế kỷ XVII – XVIII trên vùng đất Lái Thiêu xưa. Vào thế kỷ XVII, người Việt khi di cư vào Nam đã đem theo nghề gốm từ phía Bắc, vùng Thuận – Quảng vào. Họ đã thành lập các làng gốm nhỏ dọc các con đường, con sông nơi đông đúc người qua lại để sản xuất, buôn bán. Để duy trì và làm mới đồ gốm của mình, họ tích cực đi tìm nguồn nguyên liệu mới, cách chế tạo đồ gốm phù hợp. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, vùng đất Lái Thiêu (xưa kia thuộc huyện Phước Long, phủ Gia Định) là nơi có đường giao thông thủy bộ thuận lợi, là nơi có nguồn đất sét (kaolin) dồi dào, cao hơn nơi khác gấp nhiều lần. Điều đó quả là lý tưởng cho nghề gốm.
Năm 1867, ngay sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, Lái Thiêu trực thuộc quyền quản lý của chủ tỉnh Biên Hòa Philastre. Năm 1876, dưới thời de Labarthete, Biên Hòa bị chia thành 3 hạt tham biện Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa. Lái Thiêu lúc này trực thuộc hạt tham biện Thủ Dầu Một, với tham biện đầu tiên là Tirant. Năm 1900, Thủ Dầu Một được đổi thành tỉnh, với chủ tỉnh đầu tiên là Couzineau. Sự thay đổi đột ngột về hành chính ở Lái Thiêu kéo theo sự thay đổi nhiều lĩnh vực khác, trong đó có nghề gốm ở Lái Thiêu. Lúc đó, nghề gốm Lái Thiêu đã phát triển rất mạnh. Đến năm 1867, với sự xuất hiện của lưu dân người Hoa thì nghề gốm Lái Thiêu mới trở thành nghề gốm chính thức, được vua Tự Đức chấp nhận và cho phép hoạt động.
Theo nhiều tài liệu viết lại, nghề gốm chính thức trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam vào thế kỷ XIX. Theo nghiên cứu của Sơn Nam và những nghệ nhân gốm sứ Lái Thiêu, chính những người Hoa hành nghề buôn bán, du lịch đã từ đường Lưỡng Quảng vào đây lập nghiệp. Họ (cùng với những người Việt có mặt lâu đời ở đây) tiến hành xây các lò luyện gốm ở trên các triền đất gò cao đổ xuống bờ rạch Lái Thiêu (rạch Tân Thới) và một số con rạch khác. Sản phẩm làm ra ban đầu là lu, khảm, vại, chum nấu nướng… với da men màu đen và màu da lươn. Các cửa hiệu đồ gốm xuất hiện lâu đời ở Lái Thiêu là Anh Ký, Kiến Xuân, Liên Hiệp Thành….hiện nay hoạt động rất hiệu quả.
Năm 1910, trong tập tài liệu Monographie de la province de Thudaumot, được Hội nghiên cứu Đông Dương xuất bản năm 1910, người Pháp viết về làng gốm Lái Thiêu như sau: “Trong tỉnh (Thủ Dầu Một) có được khoảng 40 lò gốm, trong đó An Thạnh 5 lò, Tân Thới 1 lò, Phú Cường 11 lò, Bình Chuẩn 3 lò và 9 lò ở Tân Khánh. Xưởng chính ở Lái Thiêu là trung tâm phát triển nhất về gốm (…). Số lò gốm Lái Thiêu độ 60 cái, sử dụng khoảng 1 vạn công nhân. Ngoài 3 lò của người Việt số còn lại là của tư sản Hoa Kiều. Các lò này cung cấp đồ gốm cho cả Nam Kỳ, cho các vườn cao su”.
Sau khi thành lập, làng gốm Lái Thiêu đã phát triển vượt bậc và có có nhiều đổi mới trong việc phát triển nghề gốm của mình. Để tiện theo dõi, tác giả chia sự phát triển của làng gốm Lái Thiêu thành nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1: làng gốm Lái Thiêu hình thành, phát triển (1867 – 1945).
Năm 1867 được đánh dấu là năm ra đời làng gốm Lái Thiêu, trên cơ sở nghề gốm đã được công nhận như một nghề thủ công mang tính quốc gia dưới triều Nguyễn. Trên cơ sở đó, nghề gốm đã tiếp thu kỹ thuật làm gốm của người Hoa, kết hợp với kỹ thuật của người Việt để tạo thành một loại kỹ thuật làm gốm mang đậm truyền thống Nam Bộ. Kỹ thuật truyền thống đó đã được tiến hành một cách thủ công như: khai thác nguyên liệu, tạo dáng, làm men và hình thành sản phẩm.
Giống như nghề làm gốm ở các địa phương khác trên cả nước, gốm Lái Thiêu chủ yếu khai thác và sử dụng loại đất sét có nhiều khoán Kaolin (sản phẩm của sự phong hóa đá Granit, Criolit và Andexit – gọi là cao lanh). Do chưa có phương tiện giao thông, người thợ dùng sức người, súc vật đưa đất sét về lò gốm tiếp tục công đoạn kế tiếp.
Trong khâu xử lý nguyên liệu, do kỹ thuật còn khá kém nên các hoạt động như lấy đất thô, lọc đất để tạo ra đất sét dẻo quánh cũng toàn bằng tay không. Bàn xoay còn đơn giản, làm bằng gỗ và hoạt động bằng sức người là chính. Trong thời gian này, người thợ đã biết thiết kế lò gốm để làm gốm. Nguyên tắc xây lò gốm là phải chọn nơi thuận tiện: gần giao thông thủy – bộ, gần nơi làm sản phẩm và địa hình phải có độ dốc nghiêng 150 thì mới làm được. Các lò thời kỳ đó xây theo kiểu lò bầu để dễ hoạt động. Gốm làm xong thì người thợ trực tiếp đem ra chợ buôn bán. Quan hệ giữa làng và chính quyền khá tốt.
* Giai đoạn 2: làng gốm Lái Thiêu phát triển (1945 – 1975).
Thời kỳ này đánh dấu sự phát triển cực thịnh của làng gốm Lái Thiêu. Số lượng các lò gốm tăng mạnh. Theo thống kê năm 1975, Lái Thiêu đã tăng tới 49/117 lò của toàn tỉnh Bình Dương. Chất lượng lò cũng tăng nhanh từ 7 – 10 bầu lò, mỗi bầu lò chứa hơn vài ngàn sản phẩm các loại, trong đó chiếm đa số là chén, bát, đĩa… loại còn lại rất ít. Ngoài ra, người ta cũng sáng tạo ra “lò Tàu” hoạt động hiệu quả hơn lò bầu khi xưa. Theo Sơn Na, lò gốm Lái Thiêu có 3 kiểu (hay “trường phái” sau):
+ Lò Phúc Kiến: lò này cho ra loại sản phẩm có tráng men màu đen, màu da lươn; hoa văn đơn giản và cách tạo hình sinh động. Ví dụ: ché đựng rượu, lu, vại…
+ Lò Triều Châu: lò này thường dùng men xanh trắng để thực hiện; nét vẽ đơn giản và hoa văn bình dị (hình thực vật – động vật). Ví dụ: chén, dĩa, tô..
+ Lò Quảng: nét nổi bật của kiểu lò này là sử dụng men có nhiều màu sắc, hoa văn trang trí rất đẹp, cách điệu và trang nhã.
Tạo hình cho đồ gốm có sự cải tiến. Người thợ gốm đã thành công trong việc chế tạo ra bộ truyền lực của bộ phận trục giữa và dây xích xe đạp cho bàn xoay (về sau có moteur vào) giúp người làm gốm đỡ vất vả hơn trong dùng tay tạo hình đồ gốm. Họ dần chuyển qua dùng chân điều khiển bàn xoay tạo hình cho sản phẩm. Đồng thời, người ta đưa máy móc vào làm lắng lọc đất sét, cán và nghiền đất sét thành bột mịn. Một điểm khá mới là người ta đã phát minh ra hộp đựng sản phẩm. Hộp này (làm bằng đất sét) giúp sản phẩm (chủ yếu là vật nhỏ) giữ nguyên hình dạng, tránh để bụi bẩn bám vào trước khi đưa vào lò. Cũng trong thời kỳ này, người thợ đã sáng tạo ra cái khuôn để tạo hình sản phẩm. Họ dùng khuôn (đã định dạng sẵn) áp đất sét vào; khi đất sét đã khô cứng thì họ gỡ ra, rồi ráp thêm các chi tiết nhỏ liên quan. Sau đó, họ đưa vào lò nung thành sản phẩm.
Kỹ thuật tạo men gốm có sự đổi mới. Kế thừa cách làm men của làng gốm Bát Tràng và của người Hoa, thợ gốm Lái Thiêu đã sáng tạo ra men màu. Nhiều gia đình đã thử làm loại men này trong nhiều năm, khi thành công rồi thì họ chỉ trưng bày – không chỉ dẫn cách làm loại men đó (bí mật nghề nghiệp). Kỹ thuật trang trí đã rất đa dạng với hai kiểu vẽ thông dụng: vẽ chìm và vẽ nổi. Hình vẽ trên sản phẩm cũng đã đa dạng: động vật, cây cối…
* Giai đoạn 3: từ 1975 – 1986
Trong thời gian này, các lò gốm Lái Thiêu có 1 sự “chững” lại để xem xét tình hình đất nước, rồi đề ra chiến lược phát triển. Theo thống kê năm 1985, số lò gốm tăng lên tới 117 lò. Trong các khâu làm đồ gốm, một số khâu sẽ giữ nguyên và số khác sẽ có sự thay ðổi, cải tiến phù hợp như làm khuôn, làm men và in hoa vãn lên sản phẩm. Từ việc làm từ gỗ - đất sét, giờ đây khuôn được làm từ cao lanh. Loại khuôn này dễ làm, dễ thay ðổi kiểu dáng so với các loại khuôn trước đó
Kỹ thuật làm men và in hoa vãn lên sản phẩm có sự tiến bộ nhất định. Về làm men, người thợ đã  không dùng màu tự nhiên để pha chế như thời trước. Họ dùng vàng ròng trộn lẫn với các hóa chất màu khác, rồi “in” lên sản phẩm (không vẽ) khiến người xem có cảm giác màu vẽ hiện lên tươi như thật. Kỹ thuật in hoa văn cũng khác so với lúc trước. Lúc này, người thợ đã chế tạo ra dụng cụ khắc hoa văn; vẽ hoa văn lên trên dụng cụ rồi chấm men màu in lên là xong.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm giai đoạn này có điểm khác trước. Ở chợ Thủ Dầu Một, chợ Búng đã hình thành các vựa buôn bán gốm Lái Thiêu và hoạt động tấp nập. Ở các vựa này, người thợ đem sản phẩm đã làm xong giao chủ vựa. Chủ vựa nhận sản phẩm, trả tiền cho thợ và tiếp tục buôn bán như thường ngày.
Giai đoạn 4: làng gốm Lái Thiêu phát triển mạnh (1986 – nay).
Sau sự kiện Đổi mới 1986 diễn ra, nghề gốm Lái Thiêu đã bắt đầu có chiến lược mới để phát triển. Theo chiến lược phát triển chung của đất nước, gốm Lái Thiêu phát triển theo xu hướng đa dạng hóa cơ sở sản xuất, lao động (đào tạo có chuyên môn, nghiệp vụ), phát triển mạnh và nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đạt nhiều thành tựu nổi bật: Về cơ sở sản xuất thì tính đến thời điểm hiện nay, số lượng lò gốm Lái Thiêu liên tục tăng mạnh. Nhiều công ty, cơ sở chế biến các sản phẩm gốm tăng vọt; hầu hết nằm dọc trên các trục đường chính và gần con sông, nơi có đông người qua lại để trao đổi, buôn bán. Số lượng lao động tăng vọt lên đến vài trăm người trong tổng số hơn 12.000 lao động làm gốm của toàn tỉnh Bình Dương. Lao động làm gốm hầu hết là nông dân, thợ lành nghề; thợ trong dòng họ cùng làm chung 1 nghề.
Hàng hóa, mẫu mã và chất lượng hàng hóa thời kỳ này tăng nhanh về số lượng cũng như chất lượng. Về mẫu mã, người thợ đã thành công trong việc chế tạo mẫu men màu mới, tốt hơn nhiều so với men cũ trước đây. Họa tiết, hoa văn luôn được thay đổi, đổi mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chất lượng sản phẩm gốm Lái Thiêu được nâng cao một bước mới, nhất là trong tình hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước, đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại (nhất là hàng Trung Quốc). Giá cả khá mềm, phù hợp khách hàng; một xâu chén (10 cái) có giá từ 8 – 10.000 đồng, đồ sứ luôn bán với giá từ 20.000 đồng trở lên. Riêng đồ xuất nhập khẩu ra bên ngoài thì sẽ có giá khác (có kèm thuế quan) nhằm thu ngoại tệ nhiều về làng gốm.
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự đổi mới về chính quyền, quan hệ chính quyền (chủ thợ) với người thợ. Chính quyền tỉnh có chính sách cụ thể để quan tâm nhiều đến giới chủ lò gốm như kêu gọi giới đầu tư và trí thức đầu tư vào làng gốm, cho phép giới chủ - người dân làm thủ tục về gốm, quản lý mọi hoạt động trong làng nghề. Trong quan hệ chủ - thợ, người chủ (Trung Hoa) có sự liên kết lẫn nhau, cùng nhau thờ “ông Bổn” cầu cho nghề nghiệp phát triển thuận lợi. Chủ phân công thợ vào thành từng nhóm, mỗi nhóm đảm trách 1 công việc riêng biệt. Để phát triển nghề gốm, làng gốm Lái Thiêu quan tâm nhiều đến thị trường. Họ cung cấp đầy đủ, kịp thời nhu cầu của khách trong nước và nước ngoài.


2.      Thực trạng gốm Lái Thiêu hiện nay
Làng gốm Lái Thiêu đang phát triển vững mạnh và đang khẳng định vị thế của mình trong danh sách hơn 2.100 làng gốm trên khắp đất nước Việt Nam. Về sản phẩm, có thể nói trong số các làng gốm ở Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung, sản phẩm gốm Lái Thiêu ngày càng phát triển với nhiều cái đổi mới: đường nét – hoa văn, mẫu mã. Những cái đó rất đẹp, thu hút rất đông người dân, khách du hành tới xem và thưởng thức nghệ thuật.
Sản phẩm của gốm Lái Thiêu đa dạng về kích thước, mẫu mã và phong phú về màu sắc, chất lượng. Chúng dễ tìm thấy trong các vựa gốm, cửa hàng đồ gốm và cả những nơi buôn bán đồ gốm cổ khác, giá rẻ hơn hẳn so với các dòng gốm có tên tuổi như Bát Tràng, Chu Đậu…. Nhưng qua thời gian, vẻ đẹp mộc mạc của đồ gốm kiểu Phúc Kiến – chủ yếu gốm tráng men da lươn. Có khi là vẻ đẹp bay bướm, uyển chuyển như gốm Triều Châu – gốm tráng men xanh trắng, men màu (tam thái, ngũ đại), lột tả tài nghệ của những nghệ nhân gốm qua hoa văn, tích truyện được vẽ trên sản phẩm. Hay đằm thắm với gốm Quảng Đông với kiểu men phủ đặt sắc, có hỏa biến tạo ra sản phẩm kỳ diệu… ngày càng thu hút mạnh những tay chơi gốm cố ngoạn có tiếng. Họ tìm cách săn lùng, tìm kiếm các hiện vật gốm Lái Thiêu xưa đang nở rộ, nhất là từ 3 – 4 năm trở lại đây. Bàn về vấn đề này, kiến trúc sư Phan Văn Hoàng nhận định: “Qua nhiều niên đại, các sản phẩm gốm Lái Thiêu đã được phân loại theo các trường phái cụ thể, rất thuyết phục. Tuy nhiên, các trường phái ấy giờ đây chỉ còn là những sản phẩm được người xưa lưu giữ lại. Vì sự phát triển của công nghệ, sự cảm nhận về gốm của con người trong thời đại mới có nhiều điểm khác xưa nên sản phẩm gốm hiện nay không còn phân biệt được các trường phái. Ông cho rằng, sở dĩ có thực trạng đó là do có sự xáo trộn giữa các trường phái các trường phái, cải tiến mẫu mã để có sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Xét cho cùng, đó là yêu cầu đổi mới để hội nhập với thế giới, nhưng sự phát triển này làm thay đổi nét độc đáo vốn có của gốm Lái Thiêu nói riêng và gốm Bình Dương nói chung.
Trong trang trí nội thất, gốm Lái Thiêu được khách hàng, người dân sở tại rất ưa chuộng vì mỗi sản phẩm là sự pha trộn hoàn hảo của chất liệu thuần Việt, dưới sự sáng tạo tài tình của các thợ gốm Việt – Hoa (chủ yếu là người Hoa) nên gốm Lái Thiêu có nét độc đáo riêng. Thoạt nhìn, gốm Lái Thiêu giống với gốm người Hoa; nhưng trong thai gốm, lõi gốm, màu men và kiểu dáng, lại phảng phất nét Việt rất rõ ràng. Thêm nữa, sự đa dạng trong loại hình sản phẩm khiến gốm Lái Thiêu trở nên gần gũi với con người. Chính vì lẽ đó mà nhiều người theo đuổi, đổ xô đi săn tìm vẻ đẹp gốm Lái Thiêu rất đông.
Tổ chức sản xuất hiện nay ở làng gốm đang phát triển, đa dạng với các công đoạn được thực hiện liên hoàn theo trật tự xác định từ trước. Để theo kịp sự phát triển của đất nước, nghệ nhân đưa máy móc vào thực hiện. Máy móc làm giảm nhẹ lao động chân tay của con người và đạt hiệu quả cao. Sản phẩm gốm ra lò có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và bắt mắt; đáp ứng được nhu cầu của người xem. Theo số liệu thống kê năm 2009, toàn tỉnh Bình Dương có 230 công ty làm gốm (Lái Thiêu chiếm gần ½). 80% sản phẩm gốm Lái Thiêu hầu hết được xuất khẩu sang Mỹ, EU, Úc… Tổng kim ngạch xuất khẩu gốm Lái Thiêu – Bình Dương đạt 151,5 triệu USD, tăng 4% so với năm 2008. Bà Nguyễn Thị Điền – Giám đốc Sở Công thương Bình Dương cho rằng, có được kết quả này là do doanh nghiệp đầu tư công nghệ, thiết bị, khảo sát thị trường …. đúng đắn.
Mặc dù phát triển cực thịnh là thế, nhưng làng gốm Lái Thiêu cũng không tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Gốm Lái Thiêu bị hạn chế nhiều bởi yếu tố kỹ thuật trong các công đoạn làm gốm; tính sáng tạo của nghệ nhân trong làm các hoa văn, chính sách bất cập của chính quyền địa phương…
Về yếu tố kỹ thuật của nghề gốm thì có thể nói, yếu tố này đang dần suy sụp và gặp nhiều khó khăn. Nhiều nghệ nhân làng nghề cho biết, do sự truyền vào quá nhiều của công nghệ, máy móc đã làm mất đi tính thủ công. Ông Trương Văn Bình, một nghề nhân gốm Lái Thiêu lâu năm đã nói: “phương cách sản xuất hiện tại, gốm sứ Lái Thiêu sẽ cho ra chất lượng sản phẩm tốt và đều tay hơn nếu như xét về mặt công nghiệp. Nhưng xét về yếu tố sáng tạo, vẻ đẹp tâm hồn và tính nhân văn trong sản phẩm thì hoàn toàn thiếu vắng”. Giải thích lý do này, ông cho rằng yếu tố sáng tạo đã bị mất dấu bởi tính thủ công bị triệt tiêu để thay vào đó là mọi công đoạn công nghiệp, máy móc. Tính khác biệt giữa các sản phẩm cùng chủng loại không còn nữa. Ví dụ như một chiếc bình gốm sứ trong lò này, đem so với chiếc bình gốm sứ trong lò khác, có khi na ná nhau và khó phân biệt là của lò nào nếu không nhìn vào nhãn mác khắc trên bình.
Các quy trình thủ công, tính sáng tạo trên sản phẩm theo tâm trạng của nghệ nhân cũng mất đi. Một chủ lò gốm khác nhận định: “mình và các đồng nghiệp của anh đang rất trăn trở về vấn đề tính nhân văn trong ngành nghề. Vì hiện tại, nếu không nhập các dây chuyền sản xuất theo hướng công nghiệp, số lượng sản phẩm sẽ không đuổi kịp đơn đặt hàng cũng như không đuổi kịp các làng gốm sứ khác trong nước”. Mặc khác, với sự thay đổi của thị trường và luôn bị thương lái nước ngoài ép giá (sản phẩm gốm không được tốt) nên giá cả của sản phẩm ngày càng thấp. Chủ lò gốm gốc Hoa Lý Chén Dụng nói: Do nhu cầu có chén đựng mủ cao su ở đồn điền, ông phải làm ra chén. Giá một thiên chén là 10 triệu đồng, năm nay giá mủ cao su tăng nên thương buôn chấp nhận mua 15-16 triệu. Mỗi cái chén giá 400 đồng, cao hơn năm ngoái. Đất để nặn ra chén chủ yếu lấy từ Tân Lập, Hòa Thạnh, Chánh Lưu.
Tình trạng ô nhiễm trong làng nghề gốm sứ Lái Thiêu – Bình Dương tăng cao. Theo tài liệu ghi nhận, hiện có 265/465 cơ sở gốm sứ thuộc các làng gốm Lái Thiêu, Chánh Nghĩa… gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân xung quanh. Khói bụi, đất đá và nguyên liệu rơi rớt từ những chiếc xe ben chạy ẩu trên đường đất gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân ven đường. Đó là chưa kể số khác xe ben chở chất thải của làng nghề lén đổ trộm vào khu đất trống… Hơn nữa, một số cơ sớ do thiếu hụt vốn đầu từ nên đã phải dẹp tiệm. Khoảng năm 2008 – 2009, 40% cơ sở gốm đã phải dẹp tiệm, người dân phải tự kiếm nghề khác để sinh sống.
Chính vì cơ chế quản lý nửa nạc nửa mỡ, vừa cố tạo làng nghề như lại không ưu tiên cho thủ công của nhà nước nên người làm công và cả giới chủ các làng nghề gốm sứ luôn trong tình trạng điêu đứng, nếu không làm liều thì phá sản. Để tạo được sự ổn định và tính văn hóa trong các làng nghề Việt Nam hiện nay, e rằng vô cùng khó.
3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát triền bền vững làng gốm Lái Thiêu – Bình Dương.
Qua thực trạng phát triển trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, phát triển làng nghề gốm Lái Thiêu như sau:
Thứ nhất là về thị trường sản phẩm gốm. Để thực hiện được, chúng ta nền đẩy nhanh quá trình xây dựng một thương hiệu chung cho làng nghề ở tỉnh (trong đó có Lái Thiêu). Chính quyền tỉnh cần phối hợp với hiệp hội làng nghề để cùng nhau quản lý chung và hiệu quả. Kinh phí sẽ được trích từ ngân sách của chính quyền tỉnh cộng với sự hỗ trợ về vốn liếng của làng nghề, sự tài trợ của các công ty – doanh nghiệp lớn về gốm. Ngoài ra, chúng ta nên xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm; chú trọng khâu thiết kế và xây dựng mẫu mã, phân loại; tổ chức các hội chợ triển lãm các sản phẩm, sản phẩm thủ công của làng nghề; xúc tiến thương mại thông qua việc giới thiệu sản phẩm trên các kênh thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng internet.
Bình Dương là tỉnh duy nhất ỏ miền Nam tổ chức thành công festival gốm. Chính quyền tỉnh đã phối hợp các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tổ chức hội chợ triển lãm: “Gốm sứ và thế giới sắc màu” vào ngày 2/9/2010 tại Bình Dương. Tham gia hội chợ có trên 70 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, 20 làng nghề truyền thống từ Bắc chí Nam. Riêng gốm sứ Bình Dương góp mặt được 17 doanh nghiệp (Minh Long, Cường Phát, Minh Phát….). Sản phẩm gốm được tuyển lựa thật kỹ, đáp ứng tiêu chí: to lớn nhất; có văn hóa nghệ thuật với hình ảnh đẹp, đặc trưng, sang trọng nhất; được mạ vàng loại tốt nhất; đạt độ hoàn mỹ nhất; thuộc dạng linh vật khó nhất, linh vật độc đáo nhất. Công ty gốm sứ Minh Long trưng bày 3 bộ tiêu biểu: cúp hồn Việt, chén ngọc Văn Lang, cúp sen vàng. Trong đó, thiết kế chén ngọc Văn Lang được 3 linh vật rồng tiên nâng đỡ miêu tả cuộc sống thái bình thịnh trị thời Văn Lang, phải cần đến bàn tay, khối óc của 22 thợ lành nghề dày công nghiên cứu và kiên trì thực hiện hơn 1.800 ngày.


    

Chén ngọc Văn Lang                              Bình cổ vân gỗ

Thứ hai là về vốn. Để làm được điều này, UBND tỉnh (nhất là UBND thị xã Lái Thiêu nên có chính sách cụ thể để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào làng nghề, phân bố vốn cho phù hợp với điều kiện, nhu cầu phát triển của làng nghề gốm. Chính quyền nên thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay, ưu đãi về thuế và miễn thuế thuê đất cho các làng nghề khoảng từ 5 – 10 năm. Đa dạng nguồn vốn đầu tư vào làng nghề (vốn từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có liên quan đến làng nghề, vốn từ các quan chức nhà nước có quan tâm đến nghề, vốn từ nghệ nhân bỏ ra để phát triển) để thu hút họ bỏ vốn vào để phục hồi và phát triển làng nghề. Khuyến khích hiệp hội làng nghề tỉnh xây dựng một quỹ tín dụng riêng để phát triển làng nghề gốm Lái Thiêu – Bình Dương.
Thứ ba là về phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước nên có chính sách đào tạo nghề cho người lao động tại địa phương. Đối với lao động chưa có nghề thì đào tạo bằng cách truyền nghề, kèm cặp tại nơi làm việc. Đối với lao động đã có nghề thì bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề (kiến thức, kỹ năng sư phạm, thẩm mỹ, thiết kế mẫu mã…) cho vững chắc theo hình thức tập huấn ngắn ngày (hay dài ngày) tại trung tâm dạy nghề địa phương. Người nào giỏi về kiến thức, tay nghề sẽ được giữ lại làm giáo viên dạy nghề cho các nghệ nhân tại các trường nghề. Khuyến khích sự hợp tác giữa nghệ nhân và các trường nghề, các công ty…  Ở gia đình nào có truyền thống nghề gốm, việc phát triển nhân lực sẽ diễn ra trong gia đình: cha truyền nghề cho con, anh truyền nghề cho em, con truyền nghề cho cháu, chắt… và cứ thế. Bí mật về nghề nghiệp cũng được truyền bá, thường là con trưởng sẽ được truyền nghề hơn là con thứ, con út. Kiện toàn hệ thống đào tạo nghề nghiệp, khuyến khích hình thành các cơ sở đào tạo nghề ngay tại nơi sản xuất, đào tạo nghề cho nghệ nhân ở nông thôn để họ trở thành thợ lành nghề, tay nghề giỏi. Mặc khác, chúng ta có chính sách tôn vinh các nghệ nhân, thợ giỏi của làng nghề tại các hội nghị, cuộc họp trong hiệp hội làng nghề; có chính sách xã hội tích cực đối với các nghệ nhân, thợ giỏi để họ yên tâm làm việc, cống hiến hết mình với nghề.
Thứ tư là về cung cấp nguyên liệu. Chính quyền và các ban ngành nên có cuộc họp bàn, đề xuất một hệ thống tiêu chuẩn nguyên liệu chung cho làng nghề, hệ thống này phải được thành lập dựa trên sự tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến theo tinh thần tự nguyện của các cơ quan ban ngành, các nghệ nhân có tâm huyết theo mô hình hợp tác xã. Trong mô hình hợp tác xã, các nghệ nhân lành nghề sẽ tập hợp các người thợ vào làm việc, trả lương xứng đáng với công sức họ làm. Lương được phân theo bậc: chủ lò là nhiều nhất (người lành nghề thì ít nhất cũng phải hơn 100.000 đồng cho một sản phẩm). Lương của chủ lò luôn gấp 5 lần thợ phụ, gấp 2 lần thợ lành nghề; thời gian làm việc từ 10 - 12 giờ. Thực hiện theo mô hình này, chủ lò sẽ tập hợp đủ lượng nguyên liệu cần thiết cung cấp cho lò gốm trong hợp tác xã, đồng thời giúp nghệ nhân có số vốn tích lũy nhất định mà không ảnh hưởng nhiều đến giá cả nguyên liệu luôn lên xuống bất thường, ảnh hưởng nhiều đến mức giả mà các cơ sở sản xuất đặt ra từ trước.
Thứ năm là về vấn đề môi trường. Xây dựng quy hoạch không gian làng nghề gắn liền với môi trường, lấy quản lý cấp phường (xã) làm nòng cốt trong hệ thống quản lý môi trường, giáo dục người dân để họ nâng cao hiểu biết về vấn đề bảo vệ môi trường, không xả rác hay các vật dụng bừa bãi (có liên quan đến nghề gốm), vì nếu làm như thế thì họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt gấp nhiều lần so với lợi nhuận kinh tế mang lại. Về phía làng nghề gốm, cần chú ý cải tạo nhà xưởng, phân xưởng trong các cơ sở cho thông thoán tự nhiên. Trang bị cho thợ và nghệ nhân các dụng cụ an toàn lao động, thiết bị thu gom bụi, hút khí tại các vị trí  xã khí độc hại, về công nghệ và thiết bị sản xuất.
Thứ sáu là vấn đề mặt bằng sản xuất. Cho đến hiện nay, theo quy hoạch chung của tỉnh vào năm 2009 thì các làng gốm sẽ được di dời ra xa khu dân cư để tránh ô nhiễm không khí; và như thế thì các làng nghề có nguy cơ bị lụi tàn và mất trắng. Ông Đỗ Thanh Sử - Trưởng phòng Kinh tế huyện Thuận An, đã đề ra kế hoạch xây dựng và khôi phục lại làng nghề gốm sứ truyền thống trên địa bàn huyện Thuận An. Theo kế hoạch này, tỉnh sẽ dành một quỹ đất nhất định và trong đó sẽ phân bố vị trí của làng nghề. Khuôn viên và mặt bằng của các cơ sở trong làng nghề phải thoán mát, sạch sẽ để người thợ yên tâm sản xuất gốm sứ. Đối với riêng làng nghề, tỉnh nên có kế hoạch bố trí lại, tổ chức lại sản xuất theo hướng gắn với du lịch. Các cơ sở sản xuất có thể chung nhau về giao thông, điện, nước… sẽ tiết kiệm đất đai và hỗ trợ nhau trong các công việc chung.
Thứ bảy là cơ chế chính sách. Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ chế thông thoán để nhân dân có thể đóng góp vào làng nghề, tiếp cận chủ trương – chính sách của nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước có chính sách đào tạo nghiệp vụ văn hóa cho nghệ nhân. Đào tạo cán bộ quản lý về kỹ năng giao tiếp, tiếp thị, xúc tiến quảng bá… nghề ở địa phương. Địa phương cần có chính sách thu hút và đãi ngộ lao động để đảm bảo đủ nguồn nhân lực cho địa phương. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các chương trình: phát triển nông thôn, phát triển làng nghề, vốn từ nguồn ODA, vốn huy động cộng đồng…
Nhà nước có chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư tín dụng về nông thôn đầu tư và hoạt động; hỗ trợ lãi suất đầu tư với người dân có mô hình hoạt động tốt với làng nghề. Mặc khác, Nhà nước nên có kế hoạch để quy hoạch quỹ đất đầu tư hạ tầng tạo điều kiện cho các hộ trong làng đầu tư mở rộng. Xây dựng chương trình đào tạo nghề, học hỏi kinh nghiệp các làng nghề bạn điển hình, tiên tiến. Có cơ chế trong việc hỗ trợ đầu tư mới, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, các giải pháp hữu ích phù hợp với trình độ, khả năng của người dân địa phương.
Nhà nước cũng đề ra chiến lược, kế hoạch quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề; gắn liền làng nghề với du lịch. Gắn làng nghề với phát triển du lịch là điểm mới trong chính sách phát triển của đất nước ta. Theo đó, Nhà nước chỉ thị cho chính quyền địa phương đề ra chính sách cởi mở, linh động với các làng nghề. Chính quyền cho phép các làng nghề tự động quảng bá, giới thiệu sản phẩm của họ ra công chúng bằng các hội nghị, hội chợ triển lãm (mới đây là hội chợ triển lãm gốm sứ Bình Dương); đồng thời tăng cường hợp tác với bên ngoài thông qua các chương trình hợp tác quốc tế về làng nghề, hợp tác liên kết trong phát triển du lịch với các làng nghề khác trong khu vực Trung – Bắc Bộ.
Về phía du lịch (có sự gắn kết với làng nghề) thì nên học hỏi nhiều kinh nghiệm của các nước về phát triển làng nghề, đặc biệt là phát triển làng nghề gắn liền với du lịch của Thái Lan, Nhật, Trung Quốc. Trong khuôn khổ bài viết này thì chúng tôi đề cập về kinh nghiệm của Thái Lan trong phát triển làng nghề gắn liền với du lịch. Thái Lan có 7 vạn làng nghề, do đó chính phủ Thái Lan có chính sách phát triển như sau: chính phủ mở dự án OTOP (One Tambon One Product: mỗi làng nghề một sản phẩm). Trong dự án này thì mỗi làng nghề một sản phẩm không có nghĩa là mỗi làng chỉ có một sản phẩm mà mỗi làng có kỹ năng, văn hóa, truyền thống... riêng kết tinh trong sản phẩm trở thành đặc trưng riêng của làng nghề trong sản phẩm. Để thực hiện có hiệu quả, Bộ Thương mại Thái Lan sẽ tổ chức hội chợ ở cả trong nước và quốc tế để tiếp thị. Hội chợ đầu tiên diễn ra năm 2004 đã có 16 quốc gia tham gia. Nhờ đó làng nghề Thái Lan có cơ hội khôi phục và phát triển sao cho xứng tầm phát triển chung của đất nước. Việt Nam mấy năm gần đây có bắt chước cách tổ chức làng nghề - du lịch ở Thái Lan mà tiêu biểu là Hà Nội và một số địa phương khác ở phía Bắc. Làng nghề gốm Bát Tràng, Chu Đậu được sự hỗ trợ của Nhà nước mà biến thành làng nghề du lịch, thu hút hàng nghìn lượt khách tham quan và thưởng ngoạn. Ở miền Nam cũng có nơi tổ chức khá thành công du lịch làng nghề là ở Bến Tre. Thế nhưng, Lái Thiêu với tiềm năng sẵn có thì vì lẽ nào lại không biến thành làng nghề du lịch – rất tốt để thu hút khách tham quan !!! Cho nên, chính quyền địa phương nên có sự quan tâm, đầu từ thích đáng để đưa làng nghề gốm Lái Thiêu trở thành làng nghề du lịch, cho xứng với tiềm năng phát triển của làng nghề và phát triển chung của tỉnh. Chính quyền tổ chức họp báo, thông tin đại chúng và đặc biệt là liên kết chặt chẽ với các hãng du lịch trong và ngoài nước với các đơn vị quốc tế hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn để làm tăng lượt khách du lịch.
Kết luận:
Như vậy có thể nói, trải qua thời gian dài hình thành và phát triển, làng nghề gốm Lái Thiêu - Bình Dương đã phát triển manh và tạo chỗ đứng trong thời gian dài. Nhưng về sau, do quá trình đô thị hóa của tỉnh mà đã làm cho làng nghề suy sụp, dẫn tới chỗ suy vong. Nhưng nhờ sự sáng suốt, kịp thời mà chính quyền tỉnh lập tức có chính sách bảo tồn làng nghề, phát triển bền vững làng nghề cho phù hợp với sự phát triển chung của tỉnh. Mai đây, khi làng nghề phát triển bền vững thì chính quyền nên có khuynh hướng hướng làng nghề theo sự phát triển chung của thế giới, tức là hướng làng nghề gắn liền với du lịch. Phát triển làng nghề gắn với du lịch sẽ giúp làng nghề gốm phát triển vững, phù hợp với xu hướng phát triển chung của đất nước hiện nay.


Tài liệu tham khảo:
2. Phan Đình Dũng (2004), Gốm Biên Hòa, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
3. Nguyễn Xuân Dũng (1997), Làng nghề gốm sứ Lái Thiêu huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, luận văn thạc sĩ, ĐH Văn hóa Hà Nội.
4. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí tỉnh Sông Bé, NXB Tổng hợp Sông Bé.
5. Nguyễn Minh Giao (2000), Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp gốm sứ Bình Dương trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm 2000, luận văn thạc sĩ.
6. Hương Liên (1999), “Gốm Chăm dân dã”, Tuổi trẻ chủ nhật, số ra ngày 24/10/1999.
7. Sơn Nam (1997), “Bình Dương – một thế kỷ”, Xưa và nay, số ra tháng 11/1997.
8. Sơn Nam (1997), “Lái Thiêu – chiếc nôi gốm sứ Thủ Dầu Một”, Du lịch Sông Bé, Sở Văn hóa Thông tin Sông Bé xuất bản.
9. Niên giám thống kê năm 2000, Chi cục Thống kê tỉnh Bình Dương.
10. Nguyễn Văn Thủy (2008), Nghề gốm ở Bình Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1975, luận văn thạc sĩ, Viện KHXH Việt Nam.
11. Phan Văn Tú (2011), Các giải pháp phát triển làng nghề ở thành phố Hội An – Quảng Nam, tóm tắt luận văn thạc sĩ, DH Đà Nẵng.
12. Siêu thị gốm sứ (2010), Gốm sứ Việt Nam đối mặt với cạnh tranh toàn cầu, xem: http://www.sieuthigomsu.com/tim-hieu-gom-su/gom-su-trong-nuoc/195-gom-su-viet-nam-doi-mat-voi-canh-tranh-toan-cau.html
13. Thư viện tỉnh Bình Dương (2010), Thư mục gốm sứ Bình Dương, Thủ Dầu Một, Bình Dương.