Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc (An Giang) – nét đặc sắc trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ

Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc (An Giang) – nét đặc sắc trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ

Tóm tắt:
Trong hệ thống văn hóa Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu (thờ Mẹ) là một loại hình tín ngưỡng phổ biến ở nước ta. Do đặc trưng là một nước nông nghiệp nên cư dân Việt Nam có khuynh hướng đề cao âm tính (giống cái) mà phụ nữ có vai trò quan trọng. Họ quán xuyến việc nhà, duy trì nòi giống, được phép thay chồng con cúng tổ tiên, đảm việc nước[1]…. mà trong đó đảm việc nhà, duy trì nòi giống là trường hợp tiêu biểu. Ở nhà, phụ nữ làm các công việc như quét nhà, phụ trách việc bếp núc và bữa cơm gia đình cho chồng con; quán xuyến việc nhà êm thấm. Hơn nữa, do là giống cái nên phụ nữ được sinh thêm con cái (đây là điều đàn ông không làm được) để duy trì nòi giống, duy trì sự phát triển của dòng họ mãi mãi…. So với các tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu được so sánh với tín ngưỡng phồn thực của người Việt, người Khmer và một số dân tộc ít người vùng Tây Nguyên về mảng duy trì nòi giống. Hình tượng phồn thực đó là cặp linga (đực) + yoni (cái) của người Chăm, Khmer; cặp sinh thực khí nam – nữ ở Hà Tĩnh, làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) của người Việt. Riêng ở Nam Bộ, một vùng đất mới được cư dân vùng Thuận Quảng đến khai phá, định cư từ thế kỷ XVI – XVII nhưng nó đã phát triển về mọi mặt, đặc biệt tín ngưỡng thờ Mẫu mạnh đến nỗi mà GS Ngô Đức Thịnh gọi là “đạo Mẫu”. Nó lan truyền và được phần lớn cư dân đón nhận, xem như một “món ăn tinh thần” cho tín ngưỡng của họ. Theo thống kê chưa đầy đủ, hằng năm có hơn 2 triệu lượt khách thập phương[2] đi vía Bà về tín ngưỡng. Trong bài tham luận này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cụ thể về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, mà đi sâu vào một loại hình thờ Mẫu cụ thể: Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc (An Giang). Chúng tôi tập trung làm rõ về tín ngưỡng thờ Mẫu mà cụ thể là Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc – An Giang, qua đó chỉ ra được những nét đặc sắc của tín ngưỡng này trong văn hóa thờ Mẫu ở Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.


Đặt vấn đề:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng có trên đất Việt, được hình thành từ xa xưa. Ngay từ thuở hồng hoang, việc thờ nữ thần ở đất Việt có từ lâu và đã lan tràn trên khắp mọi nơi. Theo Các nữ thần Việt Nam của Mai Thị Hảo (1988) thì cư dân đã thờ tổng cộng 75 nữ thần ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Trong chuyên luận Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS Trần Ngọc Thêm đã dựa vào tình hình thờ Mẫu ở nước ta mà chia thành nhiều loại khác nhau (theo dạng hiện tượng tự nhiên, dạng con người). Riêng ở An Giang, một vùng đất được xem là chốn linh thiên của Nam Bộ thời khai phá, tín ngưỡng thờ Mẫu khá phát triển[3] với hình tượng Bà Chúa Xứ - hiện thân của Mẹ Đất trên chốn An Giang này. Bài tham luận này góp phần tìm hiểu rõ về thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc – An Giang, qua đó chỉ ra nét đặc sắc và điển hình của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ trong quang cảnh thờ Mẫu ở Nam Bộ nói riêng cũng như Việt Nam nói chung.
Nội dung:
Trong bài tham luận này, tác giả tập trung vào tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, An Giang về mặc nguồn gốc tục thờ Bà Chúa Xứ ở An Giang, những đặc điểm về đền – miếu thờ Bà và các hoạt động trong việc thờ phụng Bà, nhất là ở lễ hội (còn gọi là lễ vía) Bà Chúa Xứ để từ đó thấy được những điểm đặc sắc của loại hình tín ngưỡng này đối với văn hóa tâm linh Nam Bộ.
1. Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc đã có từ lâu và là một phần trong số hệ thống thờ Mẫu ở Nam Bộ từ xưa đến nay. Về nguồn gốc của tín ngưỡng này, dựa vào linh vật được tìm thấy ở núi Sam – Châu Đốc được Sơn Nam, Malleret và Trần Văn Dũng[4] gọi là tượng một người đàn ông được tạc theo dạng thần Vishnu của Ấn Độ, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định khác nhau[5]; nhưng nhận định được xem là quan trọng, đáng lưu ý và có liên quan mật thiết với loại hình tín ngưỡng ở An Giang là nhận định cho rằng Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc – An Giang có gốc gác rất Việt Nam. Do vùng đất Nam Bộ là vùng đất được cư dân khai phá muộn, lại được thiên nhiên ưu đãi nên có điều kiện để ươn mầm cho sự phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa. Mặc khác, với vị trí là ngã ba của hệ thống các tuyến đường hàng hải quốc tế từ Tây sang Đông (và ngược lại) nên nơi đây (khác với miền Bắc và miền Trung) là nơi hội tụ (nói khác là giao lưu văn hóa) với nhau, tạo thành phức hợp văn hóa Nam Bộ đa dạng và phong phú.
Ở Nam Bộ, truyền thống trọng nữ được người Việt sáng tạo và phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Thời kỳ đầu, người Việt ở Bắc Bộ đã sáng tạo ra tục thờ Mẫu với các hệ thống thần thánh như Tam phủ, Tứ phủ thờ Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải (đọc chệch từ Mẫu Thủy). Vào Trung Bộ, họ kết hợp với tín ngưỡng thờ Bà Mẹ Xứ Sở của Champa thành Thiên Ana Thánh Mẫu; mãi đến khi vào Nam Bộ, họ bắt gặp tục thờ nữ thần của người Khmer (bà Neang Khmau, nữ thần Đất) để tạo nên hình tượng Bà Chúa Xứ mà ngày nay ngoài nơi thờ chính là núi Sam (Châu Đốc), còn được dân gian thờ phụng khắp Nam Bộ trong phạm vi vùng, làng và cả gia đình. Đây là vị Mẫu thần có phạm vị ảnh hưởng rộng khắp Nam Bộ hiện nay.
Vậy thì, vấn đề đặt ra là: cư dân Nam Bộ đã sáng tạo ra tín ngưỡng thờ Bà như thế nào ? Tại sao tượng là người nam và nước da hơi đen này có liên quan gì tới Bà Đen của người Khmer ? Theo ý kiến tác giả, sở dĩ họ sáng tạo ra được tín ngưỡng thờ Bà là do quá trình bản địa hóa các nữ thần của mình mà thành. Thời kỳ đầu, các loại tượng Nữ thần, Po Inư Nagar (Chăm) và Bà Đen (Khmer) đều thấp thoáng hình tượng vị thần Shiva của Ấn Độ giáo. Khi các vương quốc phát triển, cư dân bản địa đã tiến hành Chăm hóa, Khmer hóa các Nữ thần Ấn Độ thành của mình. Người Việt vào, họ đã Việt hóa các vị Nữ thần Chăm và Khmer tôn kính thành các vị thần của mình. Tất nhiên quá trình nhận thức sự chuyển tiếp vẫn diễn ra tiếp tục, nhưng người Việt đã không tự nhiên sáng tạo ra tín ngưỡng thờ Bà này. Họ chỉ vay mượn tín ngưỡng thờ Bà của các dân tộc khác (Khmer, Chăm) và sáng tạo (cho nước sơn, mặt áo lụa, đeo dây chuyền) ra thành người phụ nữ (người dân gọi tôn kính là ) cho phù hợp với nhu cầu tâm linh của con người Nam Bộ. Một vấn đề nữa được đặt ra, đó là tượng người nam (Bà Chúa Xứ) và tượng Bà Đen có liên quan gì với nhau ? Theo quan niệm dân gian, Bà Chúa Xứ và Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu) là hai chị em. Và đúng như thế: trên điện thờ Bà Đen Tây Ninh, ở nơi chính điện, người ta thấy tượng Bà Đen và Bà Chúa Xứ ngồi ngang nhau, một bà mặt đen (Bà Đen) và một bà mặt trắng (Bà Chúa Xứ)[6]. Có thể xem hai Thánh mà một ngôi. Cùng là ngôi Bà, nhưng chỉ khác nhau dạng thức thể hiện. Bà Chúa Xứ hiện diện với tư cách là bà chúa cai quản địa phương, còn Bà Đen hiện diện với tư cách Thánh Mẫu nhiều hơn chúa xứ; nên “cặp đôi” Bà Chúa Xứ + Bà Đen làm thỏa mãn đời sống tín ngưỡng của cư dân Nam Bộ. Tại sao hai Bà là hai chị em ? Do quá trình khai phá của người Việt ở Nam Bộ. Hai tỉnh An Giang (Tây Nam Bộ) và Tây Ninh (Đông Nam Bộ) có đông người Chăm, Khmer sinh sống từ lâu. Người Việt khi khai phá, lập tỉnh Tây Ninh đã Việt hóa Bà Đen của người Khmer trước – nên gọi là chị; An Giang được khai phá sau cùng, nên tượng người đàn ông cũng được họ sáng tạo thành hình tượng Bà Chúa Xứ - gọi là em. Dù là ngang bằng, nhưng khác nhau về thời điểm hình thành nên “cặp đôi” Bà Chúa Xứ + Bà Đen là hai chị em là vì thế.
Nhiều tài liệu của các học giả Việt Nam (và cả nước ngoài) có nhắc nhiều đến tín ngưỡng Bà Chúa Xứ. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có ghi chép nhưng không nói rõ nguồn gốc: “người ở đất Gia Định chuộng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần như Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Hỏa Tinh, Bà Thủy Long, cô Hồng, cô Hạnh…”. Trọng Đại Nam quất âm tự vị xuất bản năm 1895, Paulus Huỳnh Tịnh Của có nhắc đến tên Bà Chúa Xứ trong tín ngưỡng Bảy Bà, ba cậu ở Vũng Tàu xưa.  Nhà văn Sơn Nam cũng nói trong Đình miếu và lễ hội dân gian rằng, tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là một hệ tư tưởng của Đạo Lão đã suy vi. Đạo Lão với chủ trương sống hòa hợp với tự nhiên, làm bạn với tự nhiên và cùng gặp nhau, nhập thân để cùng ca hát – nhảy múa (gọi là đồng bóng). Đúng như nhận định của ông, điểm đặc sắc nhất trong việc thờ Bà Chúa Xứ là nó thể hiện lối sống hòa hợp giữa con người với tự nhiên – xa hơn nữa là giữa các cộng đồng người của các dân tộc trên vùng đất đang khai phá để hình thành dân tộc thống nhất. Mặc khác, do là dân tứ xứ, ít bị ràng buộc nên sống tự do tự tại, ưa khám phá và mạo hiểm tìm cái mới. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Mỹ là Philip Taylor, sau 4 năm điền dã ở Nam Bộ tìm hiểu tín ngưỡng này đã công bố tác phẩm: Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular Religion in Vietnam vào năm 2004. Trong tác phẩm, ông cho rằng chính hoàn cảnh xã hội Nam Bộ[7] là nguồn gốc làm tín ngưỡng này xuất hiện. Việc ra đời tín ngưỡng này, mà cụ thể là thờ hình tượng Bà Chúa Xứ - vị mẫu thần được địa phương hóa cao độ, đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của cư dân trong một vùng đất có kinh tế phát triển, đa dân tộc và đa văn hóa.
Truyền thuyết chính là “công cụ” để củng cố, làm rõ tín ngưỡng này. Một truyền thuyết kể: Ngày nọ, một số người vào núi đốn củi, tình cờ phát hiện một pho tượng phụ nữ ở giữa rừng bèn về báo với dân làng. Sau đó, bà con cùng nhau đưa tượng Bà về và lập miễu thờ. Truyền thuyết khác kể thêm rằng có một vị thần linh tự xưng là bà Chúa Xứ Châu Đốc, báo mộng cho dân làng: Hãy chọn chín cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam đưa tượng ta về lập miếu thờ, ta sẽ phù hộ cho dân an lành và làm ăn phát đạt. Sau đó, chín cô gái được chọn cử lên đỉnh núi để tìm tượng, và quả nhiên họ tìm thấy một bức tượng tạc hình một người đàn bà trong tư thế ngồi, khuôn mặt phúc hậu, mắt nhìn thẳng về phía trước, đưa về rửa sạch sẽ và lập miếu thờ. Từ đó, hằng năm dân làng lấy ngày tượng bà được “an vị” tại miễu làm ngày lễ Vía bà. Nếu đọc kỹ truyền thuyết, ta thấy có một đối tượng không thể khiên được tượng bà đó là nam giới. Chỉ duy nhất nữ giới (là những cô gái đồng trinh) mới khiêng được tượng xuống nhẹ nhàng. Vì sao như vậy ? Trước hết theo quan niệm dân gian, linh tượng là vật có hình dạng nhất định, nhưng không thể cân, đong, đo, đếm được. Vì vậy, muốn khiêng một linh tượng không bình thường này, người ta không thể dùng sức mạnh cơ bắp, mà được giải quyết theo khía cạnh khác – khía cạnh tâm linh. Cốt tượng là đàn ông. Theo quan niệm dân gian, đàn ông được quan niệm mang Dương tính, nên đàn ông không thể khiêng được tượng đàn ông. Còn phụ nữ, do không gần gũi Dương tính (đồng trinh) nên tính Âm mạnh nhất. Âm mà đi với Dương dẫn tới hút nhau. Do vậy mà chỉ có những cô gái đồng trinh mang một tập hợp Âm tính mạnh nhất thì mới có thể khiêng được tượng đàn ông là phù hợp với triết lý dân gian. Đó là cách giải thích theo quan điểm của khoa học dân gian. Còn theo quan niệm Âm – Dương của tư duy nông nghiệp, nếu Âm – Dương giao hòa thì mọi vật sẽ sinh sôi nảy nở. Do vậy, chỉ có thể lay chuyển vật mang Dương tính bằng vật mang Âm tính. Hơn nữa, dân gian ưa dùng con số 9 trong tín ngưỡng này (9 cô gái đồng trinh) vì họ cho rằng, con số 9 là con số thiên, con số quyền năng và là con số có sức mạnh lớn nhất. Khi nói đến 9 cô gái đồng trinh là ý nói đến sức mạnh vô địch của 9 người, nhấc bổng tượng nhẹ nhàng mà không tổn hại gì. Cách giải thích của dân gian quả là diệu kỳ. Như vậy, phải chăng tín ngưỡng thờ Bà Chúa (thờ Mẹ) được cấy trên tín ngưỡng phồn thực cổ xưa, theo tư duy Âm Dương chi phối sự vận hành vũ trụ của con người. Đồng thời, tín ngưỡng này cũng cho thấy người dân Nam Bộ rất coi trọng, sùng kính Bà. Họ lý tưởng hóa Bà Chúa Xứ như cái mềm mại, cái âm tính trong thuyết Âm – Dương để đối chọi với văn hóa “bá quyền, đồng hóa” và mang tính Dương của phương Bắc, coi cái mềm mại và âm tính đó như là công cụ hữu hiệu giúp họ sống vui vẻ, yêu đời.
2. Vì tính linh thiên của Bà, cư dân đã thỉnh Bà vào thờ ở trong miếu, đền thờ ngay dưới chân núi Sam. Ở vùng Tây Nam Bộ, núi Sam (thuộc dãy Thất Sơn) là ngọn núi nằm ở vùng đất tiền đồn phía Tây Nam Tổ quốc (An Giang), được người Việt đặt chân và khai phá từ thế kỷ XVII – XVIII. Theo các tài liệu ghi nhận, do có nhiều linh hiển nên có nhiều chùa thờ Phật đã xây dựng cách đây 2 – 3 thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, Thoại Ngọc Hầu khi đến trấn nhậm vùng này đã khẳng định nó là vùng thắng địa: “Từ ngày dọn dẹp cỏ gai trở đi, rành rành chân núi trắng phau, trại trại ngọn tre xanh ngắt, cảnh núi trở nên tươi đẹp, sừng sững vọt lên. Ngắm dòng nước biếc bên bờ cao, ruộng vườn bao quanh chân núi, hơi lam tuôn cuốn lẫn khói nấu cơm, chùa chiền trên chót hương tỏa mây lồng, thật không kém gì phong cảnh trung châu vậy[8]. Chính vì thế, ông đã tiến hành làm đường sá, đào kênh rạch, đặt cơ đồn điền trấn giữ vùng đất này. Để hoạt động của ông hiệu quả, vợ ông bà Châu Thị Tế thường lên thăm tượng Bà trên núi để khấn nguyện. Về sau, để tạo thuận lợi cho nhân dân có chỗ thờ cúng, bà xin chồng cho dời tượng xuống núi.
Theo tâm nguyện của vợ, ông cho hàng trăm trai tráng địa phương lên dời xuống, nhưng bao nhiêu người dời cũng không được. Một đêm nọ, bà Tế nằm mơ thấy thần tượng đá hiện lên, báo mộng rằng phải chọn 9 cô gái đồng trinh lên khiêng tượng. Khi chín cô gái khênh được tượng xuống tới gần chân núi thì tượng bỗng nhiên nặng trịch không thể khênh được nữa. Nhân dân tin rằng đó là do ý nguyện của Bà muốn chọn nơi đây làm chốn dừng chân cuối cùng nên đã lập điện thờ Bà Chúa Xứ ở chân núi Sam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ngôi miếu được dựng lên vào ngày 23 tháng 4 Âm lịch. Tương truyền, khi đã an vị ở núi Sam, Bà nhiều lần hiển linh giúp dân trừ họa. Truyền thuyết kể rằng, khi Thoại Ngọc Hầu được vua cử làm trấn thủ đất Vĩnh Thanh (An Giang xưa) thì quân Cao Miên thường sang quấy rối làm ông bình định rất vất vả. Thương chồng, vợ ông đã lên khấn Bà; cầu xin Người phù hộ cho chồng dẹp yên giặc, tái lập cuộc sống cho dân. Lời cầu xin linh ứng, Bà hiển linh giúp ông nghĩ kế dẹp yên giặc Miên, tái lập cuộc sống cho dân. Để tạ ơn, ông cho xây cất miếu Bà khang trang và rộng rãi hơn. Một truyền thuyết khác kể: tháng 5/1912, một tên tướng cướp người Miên là Nặc Phu Nông nghe tin tượng Bà có kho báu, bèn đem thuộc hạ vào cướp. Nhưng vừa vào miếu thì bỗng nhiên trời nổi sấm sét, bão tố nổi lên. Bọn chúng phải rút chạy mang thương tích đầy mình, phần đông bỏ mạng kể cả tên cầm đầu. Xác của chúng liền bị nước cuốn phăng đi. Nhiều lời truyền khẩu về âm mưu cướp giật, phá hoại khác cũng đều bị sự linh ứng của Bà trử khử được chúng.
Như vậy, ta có thể thấy do tính trọng Âm (trọng nữ) nên cư dân Nam Bộ rất coi trọng phụ nữ. “Bà” là người phụ nữ được hiển linh – là thần thánh nên được nhân dân sùng kín và tôn thờ như vị nữ thần bảo hộ cho họ khỏi mọi tai ương. Bà Chúa Xứ được xem là vị thần hội tụ đủ các vị nữ thần ở Việt và phi Việt (từ dùng của Trần Ngọc Thêm) khác nhau như Chúa Liễu, Tam phủ và Tứ phủ của người Việt; bà Po Inư Naga của người Chăm, Thiên Ana Thánh mẫu nửa Chăm nửa Việt; Bà Đen (Neang Khmau) và Bà Trắng (Neang Hingthori) của Khmer và bà Thiên Hậu của người Hoa – tất cả đều hội tụ trong một Mẹ duy nhất là Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc – An Giang. Chức năng tổng hợp của Bà Chúa Xứ Nam Bộ nói lên nhu cầu cần thiết phải bảo vệ, được che chở tại một vùng đất phải đối đầu với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược trực tiếp, nhu cầu bảo vệ lãnh thổ. Huyền năng của Bà Chúa Xứ nói riêng và các Thánh Mẫu Nam Bộ nói chung đã làm toát lên tinh thần yêu nước, khát vọng thanh bình cũng như niềm tự hào của người dân ở vùng đất mới. Qua các truyền thuyết về sự linh thiên của Bà với nhân dân, người ta đã phác họa một bức tranh đa văn hóa, đa dân tộc.
3. Cách lập đền thờ Bà Chúa Xứ và cách hành lễ trong lễ hội cũng là điểm đặc sắc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở An Giang, nếu so sánh với chung tín ngưỡng thờ Mẫu Nam Bộ và 2 miền còn lại trên đất Việt. Theo tài liệu ghi nhận, miếu Bà Chúa Xứ xây lần đầu tiên khoảng năm 1820 thời Thoại Ngọc Hầu làm tướng trấn đất Vĩnh Thanh (An Giang xưa). Đến 1870 thì xây bằng gạch và đến 1976 thì được hoàn chỉnh như hiện nay.
Đền thờ Bà Chúa Xứ là một tòa tháp cao với kiến trúc theo hình chữ “Quốc” (chữ ) với diện tích 3.000 m2 có dạng bông sen nở ra nhiều phía. Toàn bộ ngôi miếu gồm 3 tầng với tầng trệt là chính điện[9], hai tầng trên là thờ các vị Phật; mái của miếu lợp ngói xanh và góc mái vút cao như con thuyền đang lướt sóng. Trong chính điện, tượng Bà (cao 1,25 m, nặng trên 1 tấn) ngồi chính giữa với vẻ mặt uy nghi. Đứng là hai bên tượng là cặp hạc – rùa, cặp Cậu – Cô (thực chất là cặp linga – yoni được cư dân sáng tạo mà thành) trên chính điện. Ngay cạnh 2 bên bàn thờ Bà, người dân khắc đôi câu đối:
求必應試必霛夢中指示
暹可驚清可慕意外難量
Tạm dịch:
“Cầu tất ứng, thành tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lường”.
Toàn bộ 2 câu đối này ý nói: Bà có sức mạnh siêu phàm – phù hộ và giúp đỡ mọi điều cho nhân dân. Bà từ chối làm thần chủ của Xiêm, Thanh để làm chủ tín ngưỡng người Việt và điều đó được anh Khanh – bạn của cố GS Nguyễn Văn Hầu đã ví Bà “được ngưỡng mộ như một vị anh hùng siêu phàm[10], chứng tỏ đức tin càng mạnh của người Việt Nam Bộ, mạnh đến nỗi trở thành Đạo Mẫu (từ dùng của GS Ngô Đức Thịnh) được dân chúng tôn thờ và sùng kính.
Ngang với bàn thờ Bà, có bàn thờ Tiên hiền – Hậu hiền (không có tượng, chỉ có bát nhang) và bàn thờ Hội đồng. Đối diện với chính điện là võ ca (tức sân khấu) và nhà trưng bày. So sánh với cấu trúc, cách bài trí đền miếu thờ Mẫu ở Bắc Bộ, Trung Bộ thì miếu Bà ở Nam Bộ có nhiều điểm khác. Ở đền miếu thờ Mẫu ở Bắc Bộ, nếu cấu trúc và cách bài trí đều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa thì ở Nam Bộ, cấu trúc và cách bày trí đền miếu chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Việt – Chăm – Hoa và Khmer nên có tính tổng hợp: kết cấu nóc, các cột chống đỡ mái khá nhiều, đa dạng và nhiều màu sắc. Một điểm nữa, đó là cách bài trí tượng trong đền, miếu. Nếu ta tính theo trục tung (của đồ thị hàm số) ở Bắc Bộ, trên chính điện người dân thờ một loạt các vị thần như Tam phủ, Tứ phủ… ; nhưng ở Nam Bộ, họ chỉ thờ một vị thần duy nhất là Bà Chúa Xứ và bức tượng Bà được đặt ở trung tâm chính điện. Việc đặt tượng Bà làm trung tâm ý nói tính linh thiên của một vị Mẫu thần được “địa phương hóa cao độ” (từ dùng của Taylor), đồng thời nói lên tính tổng hợp trong tín ngưỡng Nam Bộ. Hơn nữa, việc pho tượng Bà với cốt là đàn ông (Dương tính) được khoác y phục phụ nữ, phải chăng là những người sáng tạo nó muốn gửi gắm quan niệm lưỡng nguyên đối đãi, dấu vết của tư duy cổ xưa. Mẫu (Mẹ) là một, nhưng trong một lại là hai. Là Âm nhưng trong Âm có Dương, vừa Nữ vừa Nam. Là Mẹ khởi nguyên sinh ra tất cả, bởi trong Mẹ, Âm – Dương hội tụ nhau cùng phát triển. Đó là lý do vì sao, trọng tâm của bức tượng trong miếu Bà chính là biểu tượng của sự sinh sôi nảy nở.
Một chi tiết nữa cũng nói thêm để làm sáng tỏ, đó là chi tiết thờ Cô – Cậu trong chính điện. Thực ra, việc thờ Cô – Cậu là thờ cặp tượng linga – yoni, vốn là biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực có từ lâu đời, được thể hiện rõ ở các phong tục của cư dân: tục tế nõ nường (thờ cặp sinh thực khí) ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (làng Đồng Kỵ), tục múa mo ở Hà Nội (trước kia là Hà Tây); ở nghệ thuật tạo hình là 4 khối tượng nam nữ giao phối trên thạp đồng Đào Thịnh…. Qua những cứ liệu đó có thể thấy, người Việt có thể đã chấp nhận đưa dương vật vào thờ phụng mà không có sự cản trở nào. Nhưng quan trọng là việc thờ đó không cùng ý nghĩa với thờ sinh thực khí bình thường, mà nó lại mang ý nghĩa khác. Vậy đó là ý nghĩa gì ? Để chứng minh, chúng ta xem một chi tiết mới, đó là việc sắp xếp linh tượng dương vật theo một trật tự mới, bắt nó phải phục tùng hệ thống, chịu sự quản lý của Bà Chúa Xứ. Chiếc linga mang tư cách thờ Cậu, là quân gia thị thực của Bà. Nếu ta biết ở Chăm, Campuchia; Vua chính là thần linh (tín ngưỡng Vua – Thần) với yếu tính thâm nhập vào linga (biểu tượng của Vua), mà linga chịu sự quản lý của Bà như cách sắp như trên, thì việc làm này chứa nhiều thâm ý. Hơn nữa, việc đặt Cậu (Dương tính) sánh ngang với Cô (Âm tính) ở hai bên tượng Bà làm nên thế Âm – Dương giao hòa và sinh sôi nảy nở, ngọn nguồn của sự tạo hóa.
Như vậy, ta có thể rút ra nhận định: ở Nam Bộ, việc thờ Bà Chúa Xứ là sự tổng hợp (hay đúng hơn là tích hợp) nhiều lớp văn hóa kế tiếp nhau: văn hóa Phù Nam, lớp văn hóa cổ Khmer, lớp văn hóa Chăm và lớp văn hóa Việt. Tính đa lớp văn hóa này vừa thể hiện sự hỗn dung tín ngưỡng – văn hóa, vừa là bản chất văn hóa dân gian. Chính sự tích hợp văn hóa đó của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ đã đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh của cư dân – một phần không thể thiếu cho đời sống tinh thần của họ.
4. Lễ hội Bà Chúa Xứ diễn ra vào ngày 24/4 – 27/4 (AL), gồm các lễ sau:
- Lễ tắm Bà: tổ chức ngày đầu tiên (24/4 AL). Trong lễ, ông chánh cùng các bô lão vào điện dâng lễ vật. Sau đó, một nhóm phụ nữ (4 – 5 người) sẽ lên điện dùng khăn bông lau tượng Bà. Xong việc, họ rút ra và mở cửa cho khách vào viếng.
- Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu: tổ chức lúc 3 giờ chiều ngày 24. Theo đó, người ta tổ chức rước sắc thần của lăng ông Thoại về miếu dự lễ; hết vía thì đưa trở lại lăng.
- Lễ túc yết[11]: tiến hành ngày 26. Theo đó, Ban quản trị cùng bô lão họp và xếp hàng, dâng lễ vật cúng Bà. Đến giờ cúng, ông chánh niệm hương, khởi cỗ và khởi động nhạc lễ cho quan khách thưởng thức.
- Lễ xây chầu: ông chánh bước tới bàn thờ đặt giữa gian võ ca, dùng một tay cầm dùi đánh trống chầu, một tay thì cầm cành dương nhúng vào tô nước rồi vảy ra xung quanh; vừa làm ông vừa khấn vái[12]. Động tác vẩy nước và khấn vái của ông ở Châu Đốc, còn gặp trong hành động của các ông chánh ở nơi khác (đình Châu Phú, đình Bình Thủy (Bến Tre)). Đó là nghi lễ cầu mưa. Cũng cần lưu ý thêm, tiếng trống chính là tín hiệu được mô phỏng từ tiếng sấm; việc tiếng trống đánh đạt sang phía Đông và Đông Nam là tín hiệu của sự cầu mưa thuận gió hòa, cầu phúc cho cộng đồng. Sau lễ, người ta sẽ cho diễn xướng.
- Lễ chánh tế: cúng giống nghi thức của lễ Túc yết.
- Lễ hoàn sắc: làm vào chiều 27, đưa sắc Thoại Ngọc Hầu vào Sơn Lăng. Chương trình hát bội kết thúc. Vía Bà chấm dứt.
Với chuỗi hành động như thế, lễ hội Bà Chúa Xứ có gì giống và khác so với các lễ hội thờ Mẫu khác. Về điểm giống, các lễ hội thờ Mẫu đều được tổ chức vào các tháng đầu năm mới (theo âm lịch) và nghi lễ được lưu truyền từ đời này sang đời khác không thay đổi. Về điểm khác, trước hết thì lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam không có phần hát bóng rỗi như các lễ cúng miếu Bà Chúa Xứ trong vùng Nam Bộ. Sau nữa, nếu tạm lướt qua lễ mộc dục, lễ vía Bà thực chất là lễ kỳ yên. Tuy nhiên, có 2 điểm khác: về nơi tổ chức, nếu ở các nơi khác, lễ kỳ yên được tổ chức ở đình thì ở lễ vía Bà ở núi Sam , lễ kỳ yên được tổ chức ngay tại miếu Bà. Một điểm khác nữa, đó là có sự khác nhau về cách tổ chức nghi thức lễ kỳ yên ở một số nơi có thờ Bà. Ví dụ, ở Bến Tre thì lễ kỳ yên có các nghi thức: nghinh thần, túc yết, tiền vãng, tiên tế, chánh tế và xây chầu. Ở đình Bình Thủy, lễ kỳ yên có các nghi thức: thỉnh sắc, túc yết, chánh tế và xây chầu.
Bên cạnh những nét chung, khái quát được so sánh ở trên, lễ hội vía Bà ở núi Sam có những nét riêng mà ở các lễ hội thờ Mẫu khác không có (nếu có thì biểu hiện rất ít, chưa cụ thể). Trong lễ xây chầu, động tác của ông chánh tế là đánh trống, vảy nước ra xung quanh có ý nghĩa khá sâu sắc. Trước hết, về đánh trống. Thường người đánh trống phải là ông chánh tế và ông này khá già cả, có uy tín trong vùng. Mặc khác khi đánh trống, ông đánh dạt tiếng trống sang hai hướng Đông và Đông Bắc. Vì sao ? Vì hai hướng này thuộc phương Đông, là phương của ánh sáng và sự sống; đồng thời là phương với con vật ngự trị là con Rồng trong Lạc Thư – Hà Đồ của người Việt. Đánh về phương đó góp phần xua đuổi tà ma, đồng thời còn là tín hiệu mô phỏng tiếng sấm, thúc giục mưa đến. Như vậy về cơ bản, lễ kỳ yên thực chất là lễ cầu mưa, xa hơn là cầu phúc với mục đích thể hiện khát vọng của người nông dân: cầu cho mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi.
Ngoài phần lễ hội ra, một số nghi lễ và trò diễn dân gian được đan cài vào tín ngưỡng thờ Bà như tục xin xăm, tục vay tiền, tục xin khăn bùa. Về tục xin xăm, khách hành hương đến cúng Bà rồi xin xăm. Họ lắc lắc các thẻ “xăm” (thẻ tre có khắc số bằng chữ Hán) trong ống tre to, lắc từ chậm đến nhanh sao cho quẻ xăm rơi ra khỏi ống. Sau đó, họ xin keo (tung hai mảnh gỗ hình trái đào, một mặt phẳng, mặt còn lại tròn) rồi nhờ người trên bàn đoán giùm việc cầu xin của mình. Ngoài ra, một số tục lệ khác cũng được xen cài vào tín ngưỡng này. Đó là lệ vay tiền Bà, lệ xin khăn bùa…. Theo lệ vay tiền Bà, những người đến viếng chỉ vay một ít tiền của Bà có tính tượng trương để lấy hên, lấy may trong cuộc mua bán, làm ăn. Số tiền trả không giới hạn, tùy tâm tính chủ. Ở Tp. Hồ Chí Minh, nhiều người làm ăn thất bát đã viếng Bà để vay tiền. Chẳng hạn, năm 2006 ông giám đốc của công ty Minh Triết vì làm ăn thua lỗ nên xuống vay Bà 1 tỷ đồng. Ông chuẩn bị đủ lễ vật cúng Bà, cầu khẩn liên tục trong lễ vía nên sau lễ, ông về và công ty làm ăn tấn tới. Ông còn hứa năm sau về viếng sẽ trả nợ Bà cả vốn lẫn lãi[13]. Những người vay tiền mà không trả thì Bà làm cho làm ăn lụi bại, gia đình mất hết. Ngoài ra còn có lệ xin khăn bùa chống tà ma quấy phá. Khăn bùa là loại khăn màu đỏ, được xé ra từ khăn choàng trên vai tượng Bà để đeo vào cổ trẻ nhỏ, làm cái nơ tết vào nơi miệng túi hay khuy áo. Sự hưởng ứng của người dân với lễ vía mạnh đến mức người ta phải xé hàng nghìn mét khăn phát cho khách. Đương nhiên, một cái khăn choàng của Bà làm sao đủ cho số ấy ?
Đồng thời với các tục lệ, các trò diễn dân gian cũng được du nhập và cài xen vào lễ hội vía Bà như hát bóng, hầu bóng. Trò diễn hát bóng (hay múa bóng) tồn tại khá lâu trong lễ hội vía Bà. Theo Cuisinier, Gabrielle-Wosien thì múa bóng chính là “múa với ngọn lửa thiên”. Lambersy cũng nhấn mạnh: “nhảy múa không chỉ là biểu hiện của lòng khao khát được thoát ra khỏi kiềm chế của các quy luật trọng lực, mà hơn thế nữa, là biểu hiện của ước vọng được hòa mình vào với sự hài hòa của vũ trụ[14]. Như vậy, múa bóng trong vía Bà thực chất là múa với ngọn lửa, dùng ngọn lửa của mình để thổi vào đó những ước vọng con người, cầu mong được yên vui, hòa bình. Tại lễ vía Bà, những ông Bóng, bà Bóng thực hiện các màn nhảy múa với các công cụ trong tay (lưỡi cày nung đỏ, mâm vàng….), cầu cho người viếng Bà nhiều sức khỏe. Tuy những trò diễn như vầy không có gắn với các nghi lễ như ở Bắc Bộ, nhưng người dân các nơi khác vẫn diễn lại trò này và họ xem là một phần không thể thiếu trong lễ vía Bà.
Nghi lễ hầu bóng đã tồn tại cùng lúc với hát bóng, song có biến đổi ít nhiều tùy theo hoàn cảnh và sự thay đổi của miếu Bà. Là nghi thức nhập đồng, nhưng hầu bóng ở miếu Bà có điểm khác. Ở các đình làng Bắc Bộ, hầu bóng thường gắn với thần linh và mang tính shaman nhiều (hành xác thân thể Cô Đồng bằng than lửa hồng…), riêng hầu bóng ở Nam Bộ không gắn với thần linh nhiều. Riêng ở miếu Bà ở An Giang (Nam Bộ) thì hầu bóng không gắn với hệ thống thần linh trong miếu, tức là nó không phụ thuộc vào thần linh trong miếu. Các ông Đồng, bà Đồng có quyền triệu hồn (nhập hồn) người chết vào xác họ, cầu xin thần linh hay tu đồng bóng mà không ảnh hưởng đến không gian của miếu này. Có lẽ, người ta cần một không gian riêng để hành nghề, hơn là gắn chặt nó với thần linh được phụng thờ. Và rất có thể, hầu bóng Nam Bộ là kết quả của sự giao thoa của ba nền văn hóa Chăm – Khmer – Việt, chính sự giao thoa đó làm hầu bóng Nam Bộ thêm đa dạng và phong phú hơn; đồng thời cũng giúp giảm dần tính nghi lễ phức tạp của hầu bóng Bắc Bộ, mà thêm vào đó sự đơn giản, giản lượt, kích thích sự sáng tạo của người làm nghi lễ này.
Hàng năm, lễ hội vía Bà thu hút hàng ngàn lượt khách thăm viếng. Thống kê sau vào năm 2006 cho thấy số lượng khách tham quan miếu Bà Chúa Xứ Châu Đốc[15]:
Năm 2006
Khách trú Việt Nam
Khách trú nước ngoài
Khách trú Việt kiều
Tổng lượng khách trú
Tổng khách trú và tham quan
Quý 1
135.860
13.522
938
150.320
537.500
Quý 2
171.259
7.560
888
179.707
1.180.000
Quý 3
35.048
8.338
820
44.206
221.000
Quý 4
35.337
12.990
861
49.188
281.500
Tổng cộng
337.504
42.410
3.507
423.421
2.220.000
Xem bảng này, ta thấy lượng khách nội địa viếng Bà Chúa Xứ chiếm nhiều nhất: 70 – 80 %, còn lại là khách nước ngoài và Việt kiều. Họ đến đây vào dịp vía Bà và các dịp khác. Khách đến nơi thường chọn nơi để ăn nghỉ và thông thường, họ chọn nhà trọ là chủ yếu. Theo thống kê năm 2006, ở khu vực miếu Bà có 400 nhà trọ, 10 khách sạn từ 1 – 3 sao và tỉ lệ khách ở nhà trọ là 80%, nhà bà con 10%, khách sạn 5% và khuôn viên miếu 5%. Giải thích cho điều này, Lư Hoàng Phố (An Giang) cho rằng, đời sống nhân dân lúc này được nâng cao rõ rệt qua nhiều năm nay (thu nhập đầu người của người Việt năm 2005 là 635 USD, đến 2006 tăng lên tới 715 USD). Hơn nữa, miếu Bà với lối kiến trúc và cách bày trí đẹp, nhất là dàn đèn màu trang trí cho miếu về đêm ngập tràn màu sắc đã thu hút ánh nhìn của người xem; đồng thời họ còn muốn cúng bái Bà nhiều hơn (hoạt động tự do). Khách du lịch đã đến thăm viếng và họ rất hài lòng với dịch vụ mua bán ở nơi đây. Người bán hàng buôn bán trong trật tự (ít có xáo trộn), giá cả phải chăng và hàng hóa đa dạng, phong phú nên thu hút khách du lịch nhiều hơn, đều đặn hơn.

Kết luận
Tóm lại, tín ngưỡng Bà Chúa Xứ Châu Đốc là loại tín ngưỡng mang đậm nhiều nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Nó đặc sắc không chỉ từ nguồn gốc, mà còn là biểu hiện (nhất là lễ hội) và ảnh hưởng của nó đến cộng đồng dân tộc anh em ở Nam Bộ. Lễ hội vía Bà là sự tổng hòa của những điều vừa nói trên, nó khẳng định những giá trị lịch sử truyền thống, bản sắc văn hóa và góp phần nối kết các dân tộc anh em thành một thể thống nhất.


Tài liệu tham khảo:
1.      Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long. NXB KHXH, Hà Nội.
2.       Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa, Hà Nội
3.      Trần Văn Đông (1992), Di tích miếu Bà núi Sam, An Giang.
4.      Nguyễn Văn Hầu (1971), Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Nxb Hương Sen.
5.      Nguyễn Văn Hầu (1999), Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khai phá miền đất Hậu Giang, Nxb Nam Cường.
6.      Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Thời đại Hà Nội.
7.      Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam - NXB Văn Hóa Thông Tin.
8.      Sơn Nam (2013), Đồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa, biên khảo, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
9.      Sơn Nam (2009), Đình miễu và  lễ hội dân gian, biên khảo, Nxb Tp. Hồ Chí Minh
10. Lư Hoàng Phố (2007), Hành vi của khách du lịch ở miếu Bà Chúa Xứ Châu Đốc, khóa luận tốt nghiệp – Đại học An Giang.
11. Nguyễn Minh San (2009), Những thần nữ danh tiếng, Nxb Văn hóa – thông tin.
12. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác thảo, Nxb Giáo dục Hà Nội.
13. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
14. Trần Ngọc Thêm (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb Văn hóa – Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
15. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb Tôn giáo Hà Nội.
16. Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay, Nxb Đồng Nai.
17. Trường đào tạo nghiệp vụ du lịch Sài Gòn tổ chức biên soạn (1995), Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch. Nxb Tp. Hồ Chí Minh.



[1] Khá nhiều tư liệu lịch sử (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên…) nói tới việc phụ nữ đảm việc nước. Ví dụ, lịch sử Việt Nam từ xưa đến hiện nay có nhắc đến chuyện Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai…. Các bà thấy nước mất nhà tan nên thay chồnga, anh trai đi đánh giặc, trả thù nhà. Thời Lý, Nguyên phi Ỷ Lan cũng từng thay chồng quản việc cai trị trong nước khi vua Lý Thánh Tông tiến đánh Chiêm Thành (1069); Quốc mẫu Trần Thị Dung (vợ Trần Thủ Độ), khi chồng ra tham mưu với vua kháng giặc Mông – Nguyên lần thứ nhất (1258) thì bà chủ trương “vườn không nhà trống”, tổ chức hậu cần rất tốt để bảo vệ vua và hoàng tôn họ Trần; nhờ đó cuộc kháng chiến mới thắng lợi.
[2] Tuy nhiên, con số thống kê của tác giả tổng hợp qua nhiều tài liệu còn khác xa so với thực tế. Theo Philip Taylor (2004), Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular Religion in Vietnam, thì có hơn 1 triệu lượt hành hương vía Bà mỗi năm.
[3] Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, đạo Hòa Hảo có gần 1 triệu tín đồ, Tứ Ấn Hiếu Nghĩa là 80.000 tín đồ, chưa kể các đạo khác trong địa phương có vài nghìn tín đồ tham gia. Sự tham gia của hơn 2 triệu tín đồ trong việc thò Bà Chúa Xứ chứng tỏ sức lan tỏa của loại hình tín ngưỡng này trong văn hóa tinh thần của người Nam Bộ xưa; tuy nhiên, số lượng tín đồ (đông hay ít) chưa khẳng định được đạo (hay tín ngưỡng) sẽ chiếm ưu thế, mà chỉ khẳng định đạo (hay tín ngưỡng) là một bộ phận trong hệ thống các tín ngưỡng – tôn giáo ở Nam Bộ mà thôi.
[4] Sơn Nam trong Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa (NXB Trẻ), cho rằng: tượng Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam – được người Việt đưa vào miễu để thờ phụng. Một tư liệu khác của ông Thái Công Nô (An Giang), công bố trên báo Tuổi trẻ, số ra tháng 5/2013 nói: vào năm 1941, nhà khảo cổ Malleret khi khảo sát ở miếu Bà Chúa Xứ - An Giang, đã công bố: tượng Bà thuộc loại tượng thần Vishnu, ra đời cuối thế kỷ VI. Th.s Trần Văn Dũng ở An Giang cũng nói:  “Tượng Bà Chúa Xứ thật ra là tượng nam, ngồi ở tư thế vương giả. Phần đầu của tượng hiện thờ tại miếu Bà không phải là nguyên gốc, được chế tác sau, bằng loại đá không giống với thân tượng!”.
[5] Trần Ngọc Thêm trong Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, tr. 224 - 225 có đề ra 3 giả thuyết đáng lưu ý:
- Bà Chúa Xứ có gốc gác là vợ của thần Shiva, thể hiện qua hai mặt: mặt phúc thần của Uma và mặt ác thần của Kali. Người Khmer trước khi bị ảnh hưởng của Phật giáo Nam tông thì chịu ảnh hưởng của Balamon giáo với việc thờ cúng nữ thần Kali với tên gọi tín ngưỡng Bà Đen.
- Bà Chúa Xứ có gốc từ Bà Mẹ Xứ Sở (Po Naga, Po Inư Naga theo tiếng Chăm). Khi vào Nam Bộ, nó tiếp thu tín ngưỡng thờ Kali của người Khmer vào tín ngưỡng của mình.
- Bà Chúa Xứ có gốc từ các Bà, các Mẫu của người Việt từ lâu như Mẫu Địa, Mẫu Thủy, Mẫu Hỏa….
[6] Ngay cả ở Phước Long, Bà Rá và Bà Chúa Xứ cũng được đặt ngang hàng với nhau trong chính điện Bà. Xin ghi lại tham khảo.
[7] Trong tác phẩm, ông lý giải rằng cư dân Nam Bộ với lòng mong muốn giữ lại sự trường tồn của truyền thống dân tộc trong bối cảnh kinh tế phát triển năng động, sự giao lưu văn hóa của các dân tộc (Việt, Chăm, Khmer…), nên đã sáng tạo ra tín ngưỡng thờ mẫu mà cụ thể là hình tượng Bà Chúa Xứ ở An Giang. Bà Chúa Xứ là vị nữ thần được địa phương hóa cao độ, nên có khá đông khách thập phương đến thờ phụng. Việc thờ phụng này không đơn thuần là thể hiện niềm tin của cư dân với Bà, mà theo Taylor, là “những mối quan hệ thân mật với một vị thần, mà quan hệ ấy chịu ảnh hưởng của sự qua lại và những kết quả mang tính chất thương lượng với nhau”.
[8] Nguyễn Văn Hầu (1999), Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khai phá miền đất Hậu Giang, Nxb Nam Cường, tr. 400.
[9] Ngoài chính điện còn có võ ca, phòng khách, phòng của Ban quý tế của miếu Bà.
[10] Nguyễn Văn Hầu (1971), Nửa tháng trong miền Thất Sơn, Nxb Hương Sen, tr. 74.
[11] Theo Từ điển Việt – Hán của Đào Duy Anh, túc nghĩa là cung kính, yết nghĩa là trình báo, Túc yết có nghĩa là trình báo lên các vị thần những việc xãy ra tại địa phương một cách cung kính. Xin ghi lại để tham khảo.
[12] Xem tại Trần Văn Đông (1992), Di tích miếu Bà núi Sam, An Giang, tr. 16. Toàn văn bài cầu nguyện như sau:
Nhứt xái thiên thanh (thứ nhứt vãi nước lên trời xanh, cầu mưa thuận gió hòa)
Nhị xái địa ninh (thứ nhì vãi nước xuống đất, cầu cho đất tươi tốt)
Tam xái nhơn trường (thứ ba vãi nước vào dương gian, cầu cho con người sống lâu)
Tứ xái quỷ diệt hình (thứ tư vãi nước vào quỷ dữ, cầu cho chúng bị tiêu diệt)
[13] Phạm Linh Anh (2013), “Đi chùa vay tiền làm ăn”, báo điện VN Express, http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/vi-mo/di-chua-vay-tien-lam-an-2807544.html
[14] Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr. 245.
[15] Nguồn: Phòng kinh tế, thị xã Châu Đốc năm 2006.

Không có nhận xét nào: