Thứ Năm, 16 tháng 4, 2015

Một số giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững của làng nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)

Một số giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững của làng nghề gốm Lái Thiêu (Bình Dương)
Thái Nguyễn Đức Minh Quân - bài viết Hội thảo "Làng nghề và du lịch"
Đặt vấn đề:
Lái Thiêu – vùng đất nổi tiếng ở Nam Bộ với nhiều loại trái cây miệt vườn, đặc biệt nhất là trái sầu riêng, chôm chôm, vú sữa…từ lâu đã thu hút không ít khách từ khắp nơi xuống tham quan và du lịch. Không chỉ nổi tiếng về vườn cây ăn trái, Lái Thiêu còn nổi tiếng với nghề làm gốm – vốn xuất hiện ở nơi đây từ 1 thế kỷ trước. Trải qua một quá trình hình thành, phát triển thì nghề gốm Lái Thiêu đã phát triển mạnh, tạo ra được nhiều sản phẩm gốm với nhiều chủng loại (bếp gốm, bình gốm, chum, vại…), mẫu mã và hoa văn đa dạng và phong phú; thu hút sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân trong nước và nước ngoài. Hiện nay, nghề gốm Lái Thiêu dù đã trải qua một thời gian dài phát triển, đạt nhiều thành tựu nhưng đâu đó vẫn còn nhiều khiếm khuyết, bất cập. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa ở Bình Dương cũng làm cho làng gốm Lái Thiêu dần suy sụp. Vậy chúng ta cần làm gì để vực dậy lại làng gốm Lái Thiêu ? Đâu là những giải pháp chính cho vấn đề này ? Trong khuôn khổ của Hội thảo quốc tế về làng nghề du lịch Việt Nam, tham luận của tôi trình bày khái lược về lịch sử hình thành, phát triển của làng gốm; nêu ra thực trạng và đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển làng gốm Lái Thiêu.
1.      Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của làng gốm Lái Thiêu
Ngược dòng lịch sử, làng gốm xuất hiện vào thế kỷ XVII – XVIII trên vùng đất Lái Thiêu xưa. Vào thế kỷ XVII, người Việt khi di cư vào Nam đã đem theo nghề gốm từ phía Bắc, vùng Thuận – Quảng vào. Họ đã thành lập các làng gốm nhỏ dọc các con đường, con sông nơi đông đúc người qua lại để sản xuất, buôn bán. Để duy trì và làm mới đồ gốm của mình, họ tích cực đi tìm nguồn nguyên liệu mới, cách chế tạo đồ gốm phù hợp. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, vùng đất Lái Thiêu (xưa kia thuộc huyện Phước Long, phủ Gia Định) là nơi có đường giao thông thủy bộ thuận lợi, là nơi có nguồn đất sét (kaolin) dồi dào, cao hơn nơi khác gấp nhiều lần. Điều đó quả là lý tưởng cho nghề gốm.
Năm 1867, ngay sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, Lái Thiêu trực thuộc quyền quản lý của chủ tỉnh Biên Hòa Philastre. Năm 1876, dưới thời de Labarthete, Biên Hòa bị chia thành 3 hạt tham biện Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa. Lái Thiêu lúc này trực thuộc hạt tham biện Thủ Dầu Một, với tham biện đầu tiên là Tirant. Năm 1900, Thủ Dầu Một được đổi thành tỉnh, với chủ tỉnh đầu tiên là Couzineau. Sự thay đổi đột ngột về hành chính ở Lái Thiêu kéo theo sự thay đổi nhiều lĩnh vực khác, trong đó có nghề gốm ở Lái Thiêu. Lúc đó, nghề gốm Lái Thiêu đã phát triển rất mạnh. Đến năm 1867, với sự xuất hiện của lưu dân người Hoa thì nghề gốm Lái Thiêu mới trở thành nghề gốm chính thức, được vua Tự Đức chấp nhận và cho phép hoạt động.
Theo nhiều tài liệu viết lại, nghề gốm chính thức trở thành một ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam vào thế kỷ XIX. Theo nghiên cứu của Sơn Nam và những nghệ nhân gốm sứ Lái Thiêu, chính những người Hoa hành nghề buôn bán, du lịch đã từ đường Lưỡng Quảng vào đây lập nghiệp. Họ (cùng với những người Việt có mặt lâu đời ở đây) tiến hành xây các lò luyện gốm ở trên các triền đất gò cao đổ xuống bờ rạch Lái Thiêu (rạch Tân Thới) và một số con rạch khác. Sản phẩm làm ra ban đầu là lu, khảm, vại, chum nấu nướng… với da men màu đen và màu da lươn. Các cửa hiệu đồ gốm xuất hiện lâu đời ở Lái Thiêu là Anh Ký, Kiến Xuân, Liên Hiệp Thành….hiện nay hoạt động rất hiệu quả.
Năm 1910, trong tập tài liệu Monographie de la province de Thudaumot, được Hội nghiên cứu Đông Dương xuất bản năm 1910, người Pháp viết về làng gốm Lái Thiêu như sau: “Trong tỉnh (Thủ Dầu Một) có được khoảng 40 lò gốm, trong đó An Thạnh 5 lò, Tân Thới 1 lò, Phú Cường 11 lò, Bình Chuẩn 3 lò và 9 lò ở Tân Khánh. Xưởng chính ở Lái Thiêu là trung tâm phát triển nhất về gốm (…). Số lò gốm Lái Thiêu độ 60 cái, sử dụng khoảng 1 vạn công nhân. Ngoài 3 lò của người Việt số còn lại là của tư sản Hoa Kiều. Các lò này cung cấp đồ gốm cho cả Nam Kỳ, cho các vườn cao su”.
Sau khi thành lập, làng gốm Lái Thiêu đã phát triển vượt bậc và có có nhiều đổi mới trong việc phát triển nghề gốm của mình. Để tiện theo dõi, tác giả chia sự phát triển của làng gốm Lái Thiêu thành nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1: làng gốm Lái Thiêu hình thành, phát triển (1867 – 1945).
Năm 1867 được đánh dấu là năm ra đời làng gốm Lái Thiêu, trên cơ sở nghề gốm đã được công nhận như một nghề thủ công mang tính quốc gia dưới triều Nguyễn. Trên cơ sở đó, nghề gốm đã tiếp thu kỹ thuật làm gốm của người Hoa, kết hợp với kỹ thuật của người Việt để tạo thành một loại kỹ thuật làm gốm mang đậm truyền thống Nam Bộ. Kỹ thuật truyền thống đó đã được tiến hành một cách thủ công như: khai thác nguyên liệu, tạo dáng, làm men và hình thành sản phẩm.
Giống như nghề làm gốm ở các địa phương khác trên cả nước, gốm Lái Thiêu chủ yếu khai thác và sử dụng loại đất sét có nhiều khoán Kaolin (sản phẩm của sự phong hóa đá Granit, Criolit và Andexit – gọi là cao lanh). Do chưa có phương tiện giao thông, người thợ dùng sức người, súc vật đưa đất sét về lò gốm tiếp tục công đoạn kế tiếp.
Trong khâu xử lý nguyên liệu, do kỹ thuật còn khá kém nên các hoạt động như lấy đất thô, lọc đất để tạo ra đất sét dẻo quánh cũng toàn bằng tay không. Bàn xoay còn đơn giản, làm bằng gỗ và hoạt động bằng sức người là chính. Trong thời gian này, người thợ đã biết thiết kế lò gốm để làm gốm. Nguyên tắc xây lò gốm là phải chọn nơi thuận tiện: gần giao thông thủy – bộ, gần nơi làm sản phẩm và địa hình phải có độ dốc nghiêng 150 thì mới làm được. Các lò thời kỳ đó xây theo kiểu lò bầu để dễ hoạt động. Gốm làm xong thì người thợ trực tiếp đem ra chợ buôn bán. Quan hệ giữa làng và chính quyền khá tốt.
* Giai đoạn 2: làng gốm Lái Thiêu phát triển (1945 – 1975).
Thời kỳ này đánh dấu sự phát triển cực thịnh của làng gốm Lái Thiêu. Số lượng các lò gốm tăng mạnh. Theo thống kê năm 1975, Lái Thiêu đã tăng tới 49/117 lò của toàn tỉnh Bình Dương. Chất lượng lò cũng tăng nhanh từ 7 – 10 bầu lò, mỗi bầu lò chứa hơn vài ngàn sản phẩm các loại, trong đó chiếm đa số là chén, bát, đĩa… loại còn lại rất ít. Ngoài ra, người ta cũng sáng tạo ra “lò Tàu” hoạt động hiệu quả hơn lò bầu khi xưa. Theo Sơn Na, lò gốm Lái Thiêu có 3 kiểu (hay “trường phái” sau):
+ Lò Phúc Kiến: lò này cho ra loại sản phẩm có tráng men màu đen, màu da lươn; hoa văn đơn giản và cách tạo hình sinh động. Ví dụ: ché đựng rượu, lu, vại…
+ Lò Triều Châu: lò này thường dùng men xanh trắng để thực hiện; nét vẽ đơn giản và hoa văn bình dị (hình thực vật – động vật). Ví dụ: chén, dĩa, tô..
+ Lò Quảng: nét nổi bật của kiểu lò này là sử dụng men có nhiều màu sắc, hoa văn trang trí rất đẹp, cách điệu và trang nhã.
Tạo hình cho đồ gốm có sự cải tiến. Người thợ gốm đã thành công trong việc chế tạo ra bộ truyền lực của bộ phận trục giữa và dây xích xe đạp cho bàn xoay (về sau có moteur vào) giúp người làm gốm đỡ vất vả hơn trong dùng tay tạo hình đồ gốm. Họ dần chuyển qua dùng chân điều khiển bàn xoay tạo hình cho sản phẩm. Đồng thời, người ta đưa máy móc vào làm lắng lọc đất sét, cán và nghiền đất sét thành bột mịn. Một điểm khá mới là người ta đã phát minh ra hộp đựng sản phẩm. Hộp này (làm bằng đất sét) giúp sản phẩm (chủ yếu là vật nhỏ) giữ nguyên hình dạng, tránh để bụi bẩn bám vào trước khi đưa vào lò. Cũng trong thời kỳ này, người thợ đã sáng tạo ra cái khuôn để tạo hình sản phẩm. Họ dùng khuôn (đã định dạng sẵn) áp đất sét vào; khi đất sét đã khô cứng thì họ gỡ ra, rồi ráp thêm các chi tiết nhỏ liên quan. Sau đó, họ đưa vào lò nung thành sản phẩm.
Kỹ thuật tạo men gốm có sự đổi mới. Kế thừa cách làm men của làng gốm Bát Tràng và của người Hoa, thợ gốm Lái Thiêu đã sáng tạo ra men màu. Nhiều gia đình đã thử làm loại men này trong nhiều năm, khi thành công rồi thì họ chỉ trưng bày – không chỉ dẫn cách làm loại men đó (bí mật nghề nghiệp). Kỹ thuật trang trí đã rất đa dạng với hai kiểu vẽ thông dụng: vẽ chìm và vẽ nổi. Hình vẽ trên sản phẩm cũng đã đa dạng: động vật, cây cối…
* Giai đoạn 3: từ 1975 – 1986
Trong thời gian này, các lò gốm Lái Thiêu có 1 sự “chững” lại để xem xét tình hình đất nước, rồi đề ra chiến lược phát triển. Theo thống kê năm 1985, số lò gốm tăng lên tới 117 lò. Trong các khâu làm đồ gốm, một số khâu sẽ giữ nguyên và số khác sẽ có sự thay ðổi, cải tiến phù hợp như làm khuôn, làm men và in hoa vãn lên sản phẩm. Từ việc làm từ gỗ - đất sét, giờ đây khuôn được làm từ cao lanh. Loại khuôn này dễ làm, dễ thay ðổi kiểu dáng so với các loại khuôn trước đó
Kỹ thuật làm men và in hoa vãn lên sản phẩm có sự tiến bộ nhất định. Về làm men, người thợ đã  không dùng màu tự nhiên để pha chế như thời trước. Họ dùng vàng ròng trộn lẫn với các hóa chất màu khác, rồi “in” lên sản phẩm (không vẽ) khiến người xem có cảm giác màu vẽ hiện lên tươi như thật. Kỹ thuật in hoa văn cũng khác so với lúc trước. Lúc này, người thợ đã chế tạo ra dụng cụ khắc hoa văn; vẽ hoa văn lên trên dụng cụ rồi chấm men màu in lên là xong.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm giai đoạn này có điểm khác trước. Ở chợ Thủ Dầu Một, chợ Búng đã hình thành các vựa buôn bán gốm Lái Thiêu và hoạt động tấp nập. Ở các vựa này, người thợ đem sản phẩm đã làm xong giao chủ vựa. Chủ vựa nhận sản phẩm, trả tiền cho thợ và tiếp tục buôn bán như thường ngày.
Giai đoạn 4: làng gốm Lái Thiêu phát triển mạnh (1986 – nay).
Sau sự kiện Đổi mới 1986 diễn ra, nghề gốm Lái Thiêu đã bắt đầu có chiến lược mới để phát triển. Theo chiến lược phát triển chung của đất nước, gốm Lái Thiêu phát triển theo xu hướng đa dạng hóa cơ sở sản xuất, lao động (đào tạo có chuyên môn, nghiệp vụ), phát triển mạnh và nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và đạt nhiều thành tựu nổi bật: Về cơ sở sản xuất thì tính đến thời điểm hiện nay, số lượng lò gốm Lái Thiêu liên tục tăng mạnh. Nhiều công ty, cơ sở chế biến các sản phẩm gốm tăng vọt; hầu hết nằm dọc trên các trục đường chính và gần con sông, nơi có đông người qua lại để trao đổi, buôn bán. Số lượng lao động tăng vọt lên đến vài trăm người trong tổng số hơn 12.000 lao động làm gốm của toàn tỉnh Bình Dương. Lao động làm gốm hầu hết là nông dân, thợ lành nghề; thợ trong dòng họ cùng làm chung 1 nghề.
Hàng hóa, mẫu mã và chất lượng hàng hóa thời kỳ này tăng nhanh về số lượng cũng như chất lượng. Về mẫu mã, người thợ đã thành công trong việc chế tạo mẫu men màu mới, tốt hơn nhiều so với men cũ trước đây. Họa tiết, hoa văn luôn được thay đổi, đổi mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chất lượng sản phẩm gốm Lái Thiêu được nâng cao một bước mới, nhất là trong tình hình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước, đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại (nhất là hàng Trung Quốc). Giá cả khá mềm, phù hợp khách hàng; một xâu chén (10 cái) có giá từ 8 – 10.000 đồng, đồ sứ luôn bán với giá từ 20.000 đồng trở lên. Riêng đồ xuất nhập khẩu ra bên ngoài thì sẽ có giá khác (có kèm thuế quan) nhằm thu ngoại tệ nhiều về làng gốm.
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự đổi mới về chính quyền, quan hệ chính quyền (chủ thợ) với người thợ. Chính quyền tỉnh có chính sách cụ thể để quan tâm nhiều đến giới chủ lò gốm như kêu gọi giới đầu tư và trí thức đầu tư vào làng gốm, cho phép giới chủ - người dân làm thủ tục về gốm, quản lý mọi hoạt động trong làng nghề. Trong quan hệ chủ - thợ, người chủ (Trung Hoa) có sự liên kết lẫn nhau, cùng nhau thờ “ông Bổn” cầu cho nghề nghiệp phát triển thuận lợi. Chủ phân công thợ vào thành từng nhóm, mỗi nhóm đảm trách 1 công việc riêng biệt. Để phát triển nghề gốm, làng gốm Lái Thiêu quan tâm nhiều đến thị trường. Họ cung cấp đầy đủ, kịp thời nhu cầu của khách trong nước và nước ngoài.


2.      Thực trạng gốm Lái Thiêu hiện nay
Làng gốm Lái Thiêu đang phát triển vững mạnh và đang khẳng định vị thế của mình trong danh sách hơn 2.100 làng gốm trên khắp đất nước Việt Nam. Về sản phẩm, có thể nói trong số các làng gốm ở Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung, sản phẩm gốm Lái Thiêu ngày càng phát triển với nhiều cái đổi mới: đường nét – hoa văn, mẫu mã. Những cái đó rất đẹp, thu hút rất đông người dân, khách du hành tới xem và thưởng thức nghệ thuật.
Sản phẩm của gốm Lái Thiêu đa dạng về kích thước, mẫu mã và phong phú về màu sắc, chất lượng. Chúng dễ tìm thấy trong các vựa gốm, cửa hàng đồ gốm và cả những nơi buôn bán đồ gốm cổ khác, giá rẻ hơn hẳn so với các dòng gốm có tên tuổi như Bát Tràng, Chu Đậu…. Nhưng qua thời gian, vẻ đẹp mộc mạc của đồ gốm kiểu Phúc Kiến – chủ yếu gốm tráng men da lươn. Có khi là vẻ đẹp bay bướm, uyển chuyển như gốm Triều Châu – gốm tráng men xanh trắng, men màu (tam thái, ngũ đại), lột tả tài nghệ của những nghệ nhân gốm qua hoa văn, tích truyện được vẽ trên sản phẩm. Hay đằm thắm với gốm Quảng Đông với kiểu men phủ đặt sắc, có hỏa biến tạo ra sản phẩm kỳ diệu… ngày càng thu hút mạnh những tay chơi gốm cố ngoạn có tiếng. Họ tìm cách săn lùng, tìm kiếm các hiện vật gốm Lái Thiêu xưa đang nở rộ, nhất là từ 3 – 4 năm trở lại đây. Bàn về vấn đề này, kiến trúc sư Phan Văn Hoàng nhận định: “Qua nhiều niên đại, các sản phẩm gốm Lái Thiêu đã được phân loại theo các trường phái cụ thể, rất thuyết phục. Tuy nhiên, các trường phái ấy giờ đây chỉ còn là những sản phẩm được người xưa lưu giữ lại. Vì sự phát triển của công nghệ, sự cảm nhận về gốm của con người trong thời đại mới có nhiều điểm khác xưa nên sản phẩm gốm hiện nay không còn phân biệt được các trường phái. Ông cho rằng, sở dĩ có thực trạng đó là do có sự xáo trộn giữa các trường phái các trường phái, cải tiến mẫu mã để có sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Xét cho cùng, đó là yêu cầu đổi mới để hội nhập với thế giới, nhưng sự phát triển này làm thay đổi nét độc đáo vốn có của gốm Lái Thiêu nói riêng và gốm Bình Dương nói chung.
Trong trang trí nội thất, gốm Lái Thiêu được khách hàng, người dân sở tại rất ưa chuộng vì mỗi sản phẩm là sự pha trộn hoàn hảo của chất liệu thuần Việt, dưới sự sáng tạo tài tình của các thợ gốm Việt – Hoa (chủ yếu là người Hoa) nên gốm Lái Thiêu có nét độc đáo riêng. Thoạt nhìn, gốm Lái Thiêu giống với gốm người Hoa; nhưng trong thai gốm, lõi gốm, màu men và kiểu dáng, lại phảng phất nét Việt rất rõ ràng. Thêm nữa, sự đa dạng trong loại hình sản phẩm khiến gốm Lái Thiêu trở nên gần gũi với con người. Chính vì lẽ đó mà nhiều người theo đuổi, đổ xô đi săn tìm vẻ đẹp gốm Lái Thiêu rất đông.
Tổ chức sản xuất hiện nay ở làng gốm đang phát triển, đa dạng với các công đoạn được thực hiện liên hoàn theo trật tự xác định từ trước. Để theo kịp sự phát triển của đất nước, nghệ nhân đưa máy móc vào thực hiện. Máy móc làm giảm nhẹ lao động chân tay của con người và đạt hiệu quả cao. Sản phẩm gốm ra lò có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và bắt mắt; đáp ứng được nhu cầu của người xem. Theo số liệu thống kê năm 2009, toàn tỉnh Bình Dương có 230 công ty làm gốm (Lái Thiêu chiếm gần ½). 80% sản phẩm gốm Lái Thiêu hầu hết được xuất khẩu sang Mỹ, EU, Úc… Tổng kim ngạch xuất khẩu gốm Lái Thiêu – Bình Dương đạt 151,5 triệu USD, tăng 4% so với năm 2008. Bà Nguyễn Thị Điền – Giám đốc Sở Công thương Bình Dương cho rằng, có được kết quả này là do doanh nghiệp đầu tư công nghệ, thiết bị, khảo sát thị trường …. đúng đắn.
Mặc dù phát triển cực thịnh là thế, nhưng làng gốm Lái Thiêu cũng không tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Gốm Lái Thiêu bị hạn chế nhiều bởi yếu tố kỹ thuật trong các công đoạn làm gốm; tính sáng tạo của nghệ nhân trong làm các hoa văn, chính sách bất cập của chính quyền địa phương…
Về yếu tố kỹ thuật của nghề gốm thì có thể nói, yếu tố này đang dần suy sụp và gặp nhiều khó khăn. Nhiều nghệ nhân làng nghề cho biết, do sự truyền vào quá nhiều của công nghệ, máy móc đã làm mất đi tính thủ công. Ông Trương Văn Bình, một nghề nhân gốm Lái Thiêu lâu năm đã nói: “phương cách sản xuất hiện tại, gốm sứ Lái Thiêu sẽ cho ra chất lượng sản phẩm tốt và đều tay hơn nếu như xét về mặt công nghiệp. Nhưng xét về yếu tố sáng tạo, vẻ đẹp tâm hồn và tính nhân văn trong sản phẩm thì hoàn toàn thiếu vắng”. Giải thích lý do này, ông cho rằng yếu tố sáng tạo đã bị mất dấu bởi tính thủ công bị triệt tiêu để thay vào đó là mọi công đoạn công nghiệp, máy móc. Tính khác biệt giữa các sản phẩm cùng chủng loại không còn nữa. Ví dụ như một chiếc bình gốm sứ trong lò này, đem so với chiếc bình gốm sứ trong lò khác, có khi na ná nhau và khó phân biệt là của lò nào nếu không nhìn vào nhãn mác khắc trên bình.
Các quy trình thủ công, tính sáng tạo trên sản phẩm theo tâm trạng của nghệ nhân cũng mất đi. Một chủ lò gốm khác nhận định: “mình và các đồng nghiệp của anh đang rất trăn trở về vấn đề tính nhân văn trong ngành nghề. Vì hiện tại, nếu không nhập các dây chuyền sản xuất theo hướng công nghiệp, số lượng sản phẩm sẽ không đuổi kịp đơn đặt hàng cũng như không đuổi kịp các làng gốm sứ khác trong nước”. Mặc khác, với sự thay đổi của thị trường và luôn bị thương lái nước ngoài ép giá (sản phẩm gốm không được tốt) nên giá cả của sản phẩm ngày càng thấp. Chủ lò gốm gốc Hoa Lý Chén Dụng nói: Do nhu cầu có chén đựng mủ cao su ở đồn điền, ông phải làm ra chén. Giá một thiên chén là 10 triệu đồng, năm nay giá mủ cao su tăng nên thương buôn chấp nhận mua 15-16 triệu. Mỗi cái chén giá 400 đồng, cao hơn năm ngoái. Đất để nặn ra chén chủ yếu lấy từ Tân Lập, Hòa Thạnh, Chánh Lưu.
Tình trạng ô nhiễm trong làng nghề gốm sứ Lái Thiêu – Bình Dương tăng cao. Theo tài liệu ghi nhận, hiện có 265/465 cơ sở gốm sứ thuộc các làng gốm Lái Thiêu, Chánh Nghĩa… gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân xung quanh. Khói bụi, đất đá và nguyên liệu rơi rớt từ những chiếc xe ben chạy ẩu trên đường đất gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân ven đường. Đó là chưa kể số khác xe ben chở chất thải của làng nghề lén đổ trộm vào khu đất trống… Hơn nữa, một số cơ sớ do thiếu hụt vốn đầu từ nên đã phải dẹp tiệm. Khoảng năm 2008 – 2009, 40% cơ sở gốm đã phải dẹp tiệm, người dân phải tự kiếm nghề khác để sinh sống.
Chính vì cơ chế quản lý nửa nạc nửa mỡ, vừa cố tạo làng nghề như lại không ưu tiên cho thủ công của nhà nước nên người làm công và cả giới chủ các làng nghề gốm sứ luôn trong tình trạng điêu đứng, nếu không làm liều thì phá sản. Để tạo được sự ổn định và tính văn hóa trong các làng nghề Việt Nam hiện nay, e rằng vô cùng khó.
3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát triền bền vững làng gốm Lái Thiêu – Bình Dương.
Qua thực trạng phát triển trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, phát triển làng nghề gốm Lái Thiêu như sau:
Thứ nhất là về thị trường sản phẩm gốm. Để thực hiện được, chúng ta nền đẩy nhanh quá trình xây dựng một thương hiệu chung cho làng nghề ở tỉnh (trong đó có Lái Thiêu). Chính quyền tỉnh cần phối hợp với hiệp hội làng nghề để cùng nhau quản lý chung và hiệu quả. Kinh phí sẽ được trích từ ngân sách của chính quyền tỉnh cộng với sự hỗ trợ về vốn liếng của làng nghề, sự tài trợ của các công ty – doanh nghiệp lớn về gốm. Ngoài ra, chúng ta nên xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm; chú trọng khâu thiết kế và xây dựng mẫu mã, phân loại; tổ chức các hội chợ triển lãm các sản phẩm, sản phẩm thủ công của làng nghề; xúc tiến thương mại thông qua việc giới thiệu sản phẩm trên các kênh thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng internet.
Bình Dương là tỉnh duy nhất ỏ miền Nam tổ chức thành công festival gốm. Chính quyền tỉnh đã phối hợp các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tổ chức hội chợ triển lãm: “Gốm sứ và thế giới sắc màu” vào ngày 2/9/2010 tại Bình Dương. Tham gia hội chợ có trên 70 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, 20 làng nghề truyền thống từ Bắc chí Nam. Riêng gốm sứ Bình Dương góp mặt được 17 doanh nghiệp (Minh Long, Cường Phát, Minh Phát….). Sản phẩm gốm được tuyển lựa thật kỹ, đáp ứng tiêu chí: to lớn nhất; có văn hóa nghệ thuật với hình ảnh đẹp, đặc trưng, sang trọng nhất; được mạ vàng loại tốt nhất; đạt độ hoàn mỹ nhất; thuộc dạng linh vật khó nhất, linh vật độc đáo nhất. Công ty gốm sứ Minh Long trưng bày 3 bộ tiêu biểu: cúp hồn Việt, chén ngọc Văn Lang, cúp sen vàng. Trong đó, thiết kế chén ngọc Văn Lang được 3 linh vật rồng tiên nâng đỡ miêu tả cuộc sống thái bình thịnh trị thời Văn Lang, phải cần đến bàn tay, khối óc của 22 thợ lành nghề dày công nghiên cứu và kiên trì thực hiện hơn 1.800 ngày.


    

Chén ngọc Văn Lang                              Bình cổ vân gỗ

Thứ hai là về vốn. Để làm được điều này, UBND tỉnh (nhất là UBND thị xã Lái Thiêu nên có chính sách cụ thể để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào làng nghề, phân bố vốn cho phù hợp với điều kiện, nhu cầu phát triển của làng nghề gốm. Chính quyền nên thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay, ưu đãi về thuế và miễn thuế thuê đất cho các làng nghề khoảng từ 5 – 10 năm. Đa dạng nguồn vốn đầu tư vào làng nghề (vốn từ doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có liên quan đến làng nghề, vốn từ các quan chức nhà nước có quan tâm đến nghề, vốn từ nghệ nhân bỏ ra để phát triển) để thu hút họ bỏ vốn vào để phục hồi và phát triển làng nghề. Khuyến khích hiệp hội làng nghề tỉnh xây dựng một quỹ tín dụng riêng để phát triển làng nghề gốm Lái Thiêu – Bình Dương.
Thứ ba là về phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước nên có chính sách đào tạo nghề cho người lao động tại địa phương. Đối với lao động chưa có nghề thì đào tạo bằng cách truyền nghề, kèm cặp tại nơi làm việc. Đối với lao động đã có nghề thì bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề (kiến thức, kỹ năng sư phạm, thẩm mỹ, thiết kế mẫu mã…) cho vững chắc theo hình thức tập huấn ngắn ngày (hay dài ngày) tại trung tâm dạy nghề địa phương. Người nào giỏi về kiến thức, tay nghề sẽ được giữ lại làm giáo viên dạy nghề cho các nghệ nhân tại các trường nghề. Khuyến khích sự hợp tác giữa nghệ nhân và các trường nghề, các công ty…  Ở gia đình nào có truyền thống nghề gốm, việc phát triển nhân lực sẽ diễn ra trong gia đình: cha truyền nghề cho con, anh truyền nghề cho em, con truyền nghề cho cháu, chắt… và cứ thế. Bí mật về nghề nghiệp cũng được truyền bá, thường là con trưởng sẽ được truyền nghề hơn là con thứ, con út. Kiện toàn hệ thống đào tạo nghề nghiệp, khuyến khích hình thành các cơ sở đào tạo nghề ngay tại nơi sản xuất, đào tạo nghề cho nghệ nhân ở nông thôn để họ trở thành thợ lành nghề, tay nghề giỏi. Mặc khác, chúng ta có chính sách tôn vinh các nghệ nhân, thợ giỏi của làng nghề tại các hội nghị, cuộc họp trong hiệp hội làng nghề; có chính sách xã hội tích cực đối với các nghệ nhân, thợ giỏi để họ yên tâm làm việc, cống hiến hết mình với nghề.
Thứ tư là về cung cấp nguyên liệu. Chính quyền và các ban ngành nên có cuộc họp bàn, đề xuất một hệ thống tiêu chuẩn nguyên liệu chung cho làng nghề, hệ thống này phải được thành lập dựa trên sự tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến theo tinh thần tự nguyện của các cơ quan ban ngành, các nghệ nhân có tâm huyết theo mô hình hợp tác xã. Trong mô hình hợp tác xã, các nghệ nhân lành nghề sẽ tập hợp các người thợ vào làm việc, trả lương xứng đáng với công sức họ làm. Lương được phân theo bậc: chủ lò là nhiều nhất (người lành nghề thì ít nhất cũng phải hơn 100.000 đồng cho một sản phẩm). Lương của chủ lò luôn gấp 5 lần thợ phụ, gấp 2 lần thợ lành nghề; thời gian làm việc từ 10 - 12 giờ. Thực hiện theo mô hình này, chủ lò sẽ tập hợp đủ lượng nguyên liệu cần thiết cung cấp cho lò gốm trong hợp tác xã, đồng thời giúp nghệ nhân có số vốn tích lũy nhất định mà không ảnh hưởng nhiều đến giá cả nguyên liệu luôn lên xuống bất thường, ảnh hưởng nhiều đến mức giả mà các cơ sở sản xuất đặt ra từ trước.
Thứ năm là về vấn đề môi trường. Xây dựng quy hoạch không gian làng nghề gắn liền với môi trường, lấy quản lý cấp phường (xã) làm nòng cốt trong hệ thống quản lý môi trường, giáo dục người dân để họ nâng cao hiểu biết về vấn đề bảo vệ môi trường, không xả rác hay các vật dụng bừa bãi (có liên quan đến nghề gốm), vì nếu làm như thế thì họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt gấp nhiều lần so với lợi nhuận kinh tế mang lại. Về phía làng nghề gốm, cần chú ý cải tạo nhà xưởng, phân xưởng trong các cơ sở cho thông thoán tự nhiên. Trang bị cho thợ và nghệ nhân các dụng cụ an toàn lao động, thiết bị thu gom bụi, hút khí tại các vị trí  xã khí độc hại, về công nghệ và thiết bị sản xuất.
Thứ sáu là vấn đề mặt bằng sản xuất. Cho đến hiện nay, theo quy hoạch chung của tỉnh vào năm 2009 thì các làng gốm sẽ được di dời ra xa khu dân cư để tránh ô nhiễm không khí; và như thế thì các làng nghề có nguy cơ bị lụi tàn và mất trắng. Ông Đỗ Thanh Sử - Trưởng phòng Kinh tế huyện Thuận An, đã đề ra kế hoạch xây dựng và khôi phục lại làng nghề gốm sứ truyền thống trên địa bàn huyện Thuận An. Theo kế hoạch này, tỉnh sẽ dành một quỹ đất nhất định và trong đó sẽ phân bố vị trí của làng nghề. Khuôn viên và mặt bằng của các cơ sở trong làng nghề phải thoán mát, sạch sẽ để người thợ yên tâm sản xuất gốm sứ. Đối với riêng làng nghề, tỉnh nên có kế hoạch bố trí lại, tổ chức lại sản xuất theo hướng gắn với du lịch. Các cơ sở sản xuất có thể chung nhau về giao thông, điện, nước… sẽ tiết kiệm đất đai và hỗ trợ nhau trong các công việc chung.
Thứ bảy là cơ chế chính sách. Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ chế thông thoán để nhân dân có thể đóng góp vào làng nghề, tiếp cận chủ trương – chính sách của nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước có chính sách đào tạo nghiệp vụ văn hóa cho nghệ nhân. Đào tạo cán bộ quản lý về kỹ năng giao tiếp, tiếp thị, xúc tiến quảng bá… nghề ở địa phương. Địa phương cần có chính sách thu hút và đãi ngộ lao động để đảm bảo đủ nguồn nhân lực cho địa phương. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các chương trình: phát triển nông thôn, phát triển làng nghề, vốn từ nguồn ODA, vốn huy động cộng đồng…
Nhà nước có chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư tín dụng về nông thôn đầu tư và hoạt động; hỗ trợ lãi suất đầu tư với người dân có mô hình hoạt động tốt với làng nghề. Mặc khác, Nhà nước nên có kế hoạch để quy hoạch quỹ đất đầu tư hạ tầng tạo điều kiện cho các hộ trong làng đầu tư mở rộng. Xây dựng chương trình đào tạo nghề, học hỏi kinh nghiệp các làng nghề bạn điển hình, tiên tiến. Có cơ chế trong việc hỗ trợ đầu tư mới, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, các giải pháp hữu ích phù hợp với trình độ, khả năng của người dân địa phương.
Nhà nước cũng đề ra chiến lược, kế hoạch quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề; gắn liền làng nghề với du lịch. Gắn làng nghề với phát triển du lịch là điểm mới trong chính sách phát triển của đất nước ta. Theo đó, Nhà nước chỉ thị cho chính quyền địa phương đề ra chính sách cởi mở, linh động với các làng nghề. Chính quyền cho phép các làng nghề tự động quảng bá, giới thiệu sản phẩm của họ ra công chúng bằng các hội nghị, hội chợ triển lãm (mới đây là hội chợ triển lãm gốm sứ Bình Dương); đồng thời tăng cường hợp tác với bên ngoài thông qua các chương trình hợp tác quốc tế về làng nghề, hợp tác liên kết trong phát triển du lịch với các làng nghề khác trong khu vực Trung – Bắc Bộ.
Về phía du lịch (có sự gắn kết với làng nghề) thì nên học hỏi nhiều kinh nghiệm của các nước về phát triển làng nghề, đặc biệt là phát triển làng nghề gắn liền với du lịch của Thái Lan, Nhật, Trung Quốc. Trong khuôn khổ bài viết này thì chúng tôi đề cập về kinh nghiệm của Thái Lan trong phát triển làng nghề gắn liền với du lịch. Thái Lan có 7 vạn làng nghề, do đó chính phủ Thái Lan có chính sách phát triển như sau: chính phủ mở dự án OTOP (One Tambon One Product: mỗi làng nghề một sản phẩm). Trong dự án này thì mỗi làng nghề một sản phẩm không có nghĩa là mỗi làng chỉ có một sản phẩm mà mỗi làng có kỹ năng, văn hóa, truyền thống... riêng kết tinh trong sản phẩm trở thành đặc trưng riêng của làng nghề trong sản phẩm. Để thực hiện có hiệu quả, Bộ Thương mại Thái Lan sẽ tổ chức hội chợ ở cả trong nước và quốc tế để tiếp thị. Hội chợ đầu tiên diễn ra năm 2004 đã có 16 quốc gia tham gia. Nhờ đó làng nghề Thái Lan có cơ hội khôi phục và phát triển sao cho xứng tầm phát triển chung của đất nước. Việt Nam mấy năm gần đây có bắt chước cách tổ chức làng nghề - du lịch ở Thái Lan mà tiêu biểu là Hà Nội và một số địa phương khác ở phía Bắc. Làng nghề gốm Bát Tràng, Chu Đậu được sự hỗ trợ của Nhà nước mà biến thành làng nghề du lịch, thu hút hàng nghìn lượt khách tham quan và thưởng ngoạn. Ở miền Nam cũng có nơi tổ chức khá thành công du lịch làng nghề là ở Bến Tre. Thế nhưng, Lái Thiêu với tiềm năng sẵn có thì vì lẽ nào lại không biến thành làng nghề du lịch – rất tốt để thu hút khách tham quan !!! Cho nên, chính quyền địa phương nên có sự quan tâm, đầu từ thích đáng để đưa làng nghề gốm Lái Thiêu trở thành làng nghề du lịch, cho xứng với tiềm năng phát triển của làng nghề và phát triển chung của tỉnh. Chính quyền tổ chức họp báo, thông tin đại chúng và đặc biệt là liên kết chặt chẽ với các hãng du lịch trong và ngoài nước với các đơn vị quốc tế hoạt động trong lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn để làm tăng lượt khách du lịch.
Kết luận:
Như vậy có thể nói, trải qua thời gian dài hình thành và phát triển, làng nghề gốm Lái Thiêu - Bình Dương đã phát triển manh và tạo chỗ đứng trong thời gian dài. Nhưng về sau, do quá trình đô thị hóa của tỉnh mà đã làm cho làng nghề suy sụp, dẫn tới chỗ suy vong. Nhưng nhờ sự sáng suốt, kịp thời mà chính quyền tỉnh lập tức có chính sách bảo tồn làng nghề, phát triển bền vững làng nghề cho phù hợp với sự phát triển chung của tỉnh. Mai đây, khi làng nghề phát triển bền vững thì chính quyền nên có khuynh hướng hướng làng nghề theo sự phát triển chung của thế giới, tức là hướng làng nghề gắn liền với du lịch. Phát triển làng nghề gắn với du lịch sẽ giúp làng nghề gốm phát triển vững, phù hợp với xu hướng phát triển chung của đất nước hiện nay.


Tài liệu tham khảo:
2. Phan Đình Dũng (2004), Gốm Biên Hòa, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
3. Nguyễn Xuân Dũng (1997), Làng nghề gốm sứ Lái Thiêu huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, luận văn thạc sĩ, ĐH Văn hóa Hà Nội.
4. Trần Bạch Đằng (1991), Địa chí tỉnh Sông Bé, NXB Tổng hợp Sông Bé.
5. Nguyễn Minh Giao (2000), Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp gốm sứ Bình Dương trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm 2000, luận văn thạc sĩ.
6. Hương Liên (1999), “Gốm Chăm dân dã”, Tuổi trẻ chủ nhật, số ra ngày 24/10/1999.
7. Sơn Nam (1997), “Bình Dương – một thế kỷ”, Xưa và nay, số ra tháng 11/1997.
8. Sơn Nam (1997), “Lái Thiêu – chiếc nôi gốm sứ Thủ Dầu Một”, Du lịch Sông Bé, Sở Văn hóa Thông tin Sông Bé xuất bản.
9. Niên giám thống kê năm 2000, Chi cục Thống kê tỉnh Bình Dương.
10. Nguyễn Văn Thủy (2008), Nghề gốm ở Bình Dương từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1975, luận văn thạc sĩ, Viện KHXH Việt Nam.
11. Phan Văn Tú (2011), Các giải pháp phát triển làng nghề ở thành phố Hội An – Quảng Nam, tóm tắt luận văn thạc sĩ, DH Đà Nẵng.
12. Siêu thị gốm sứ (2010), Gốm sứ Việt Nam đối mặt với cạnh tranh toàn cầu, xem: http://www.sieuthigomsu.com/tim-hieu-gom-su/gom-su-trong-nuoc/195-gom-su-viet-nam-doi-mat-voi-canh-tranh-toan-cau.html
13. Thư viện tỉnh Bình Dương (2010), Thư mục gốm sứ Bình Dương, Thủ Dầu Một, Bình Dương.




Không có nhận xét nào: