Vai trò của
Đức Cố quản Trần Văn Thành trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 – 1873) ở vùng
đất An Giang xưa.
Thái Nguyễn Đức
Minh Quân - Đại học Sài Gòn
Vào giữa thế kỷ XIX, ở vùng đất Nam Bộ xưa mặc dù đã
có sự hội tụ của đông đảo lưu dân Việt, Hoa, Chăm và Khmer từ nhiều nơi đến để
khai hoang, lập làng để sinh sống; nhưng trên thực tế họ chỉ khai phá được một
phần đất (chủ yếu là các giồng đất cao ráo) để lập làng sinh sống, còn những
vùng lầy thụt và ngập nước như An Giang thì rất hoang vu và thanh vắng, chưa có
dấu chân của con người đến khai phá và lập làng sinh sống. Trước tình hình đó,
tiếp nối những cuộc khai phá mở rộng đất đai Nam Bộ của những tiền nhân đi
trước và Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, Đức Cố quản Trần Văn Thành – đệ tử
thân tín của Đức Phật Thầy Tây An – đã kế tục xuất sắc sự nghiệp của thầy mình.
Ông đã chiêu mộ tín đồ và người dân tiến hành khai hoang – lập làng ở An Giang
xưa, đồng thời phổ biến sâu rộng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương vào trong dân chúng mạnh
mẽ hơn, giúp cho dân chúng sống “tốt đời, đẹp đạo” – thể hiện lòng thành của
mình không chỉ với gia đình, bạn bè và họ hàng thân tộc mà còn là với làng xóm
và với đất nước. Trong khuôn khổ của Hội thảo kỷ niệm về nhân vật lịch sử Trần
Văn Thành (1820? – 1873), chúng tôi xin đề cập vài nét về tiểu sử, sự nghiệp để
làm rõ hơn nữa những đóng góp của ông đối công cuộc khai hoang, lập làng ở vùng
đất An Giang xưa; để từ đó giúp cho giới trẻ
hiện nay và mai sau hiểu biết nhiều hơn và cụ thể hơn về Trần Văn Thành, từ đó làm cho nhân dân An Giang thêm yêu quý xứ sở,
ra sức làm tròn nghĩa vụ xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp.
1.
Đức Cố quản Trần Văn Thành: con người
và sự nghiệp
Trước khi tìm hiểu con người và sự
nghiệp của Đức Cố quản Trần Văn Thành (sau đây gọi là Quản cơ Thành), chúng ta
sẽ đi sơ lược vài nét về bối cảnh lịch sử vùng đất Nam Bộ (nhất là An Giang –
địa đầu phía Tây Nam Tổ quốc) vào nửa đầu thế kỷ XIX. Trong nửa đầu thế kỷ XIX
dưới thời Nguyễn, vùng đất Nam Bộ (nhất là An Giang) chịu nhiều biến động lớn:
nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra chống sự cai trị hà khắc của nhà
Nguyễn; cuộc sống kham khổ của lưu dân khi phải khai phá Nam Bộ xa lạ và đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên ra đời (1849) để chống
lại sự thống trị của Nho giáo trong chính quyền họ Nguyễn, là bối cảnh lịch sử
quan trong đã khiến Trần Văn Thành – một đệ tử thân tín của Phật Thầy Tây An và
là người con ưu tú của nhân dân An Giang – đứng ra làm nhiều việc có lợi cho
dân, cho nước và giúp đời.
Đầu tiên đó là vấn đề phong trào nông
dân nổ ra liên tục chống lại sự thống trị của nhà Nguyễn. Có thể nói, trong
suốt chiều dài lịch sử Việt Nam
thì chưa có triều đại nào mà nổ ra quá nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân như triều
đại Nguyễn ở Việt Nam .
Dựng lên từ năm 1802, các vua Nguyễn đã củng cố uy quyền bằng cách bắt dân phục
dịch nặng nề: xây thành quách, đào kênh mương. Năm 1805, vua Nguyễn huy động 8
vạn dân, binh lính đi xây thành Phú Xuân. Borel (Pháp, 1818) nhận định: “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây
thành lũy… Khi tôi đến Huế, đã có 80.000 người được điều động từ các nơi trong
nước đang khẩn trương xây dựng một thành lũy bằng gạch”. Riêng vùng đất Nam
Bộ mới khai phá, nhà Nguyễn bắt dân đào kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà, Bảo Định. Nhiều
người đào kênh bị chết vì bệnh, thú dữ ăn thịt. Bên cạnh đó, triều đình dung
túng cho bọn quan lại để chúng tha hồ bóc lột nhân dân một cách tàn bạo. Nguyễn
Công Trứ trong sớ gửi vua đã phản ánh tình trạng bọn quan lại tham nhũng, bóc
lột và giết người không ghê tay dẫn tới kết quả “con người ta thành mồ côi, vợ con thành góa bụa; giết cả tính mạng và
cướp hết tài sản”. Hơn nữa, triều đình lại thi hành chính sách phân biệt
đối xử giữa các dân tộc để ngăn chặn họ đoàn kết lại chống triều đình. Địa chí tỉnh Trà Vinh (1905) nhận xét : “Người Việt và người Khmer (Campuchia) đã sống hòa thuận với nhau trong
thời gian dài. Nhưng đến thời Minh Mạng (1820), triều Nguyễn ép người Khmer
phải rời bỏ phong tục tập quán của mình để theo luật An Nam ”; làm mâu thuẫn người Khmer
– Việt với triều đình gay gắt. Và hậu quả của chính sách sâu mọt này, gần 1.000
cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống triều đình. Riêng ở An Giang thì cũng đã nổ ra
khá nhiều cuộc khởi nghĩa như Lạc Hóa (Cửu Long), Hà Âm (Hà Tiên), khởi nghĩa Thất
Sơn (An Giang)….làm quân triều đình hết sức khốn đốn.
Một vấn đề kế tiếp mà chúng tôi muốn
đề cập là vấn đề khai phá Nam Bộ. Tiếp tục các chính sách khai hoang của các
chúa Nguyễn từ thế kỷ XVI – XVIII, các vua Nguyễn đã ban hành 16/25 sắc dụ về
khai khẩn Nam Bộ. Ở An Giang, triều Nguyễn đã 3 lần (1842, 1852, 1854) đưa tù
phạm, người dân xuống An Giang để khai khẩn, lập ấp và đồn điền. Những người
lưu dân đến khai hoang, họ cảm thấy sơ sệt vì vùng đất này quá rộng lớn và
hoang vu, đầy nguy hiểm đang rình rập bản thân họ:
“Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiên
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn”
Tuy sống trong điều kiện hết sức khó
khăn như vậy, nhưng người dân miền Nam vẫn sống lạc quan, yêu đời và trọng tình
cảm; chính vì điều này đã tạo điều kiện cho tôn giáo địa phương ra đời, đó là tín
ngưỡng “Ông Đạo” – nét đặc sắc trong văn hóa Nam Bộ. Vùng An Giang xưa chính là
nơi khởi phát tín ngưỡng “Ông Đạo” mà cả miền Trung – Bắc đều không có. Thứ nhất, An Giang là vùng linh địa –
trời đất giao hòa. Theo các nhà phong thủy, Thất Sơn (bảy núi – Bửu Sơn) tức kim thành huyệt là huyệt dương tương ứng
với Cửu Long là Cửu Long huyệt tức
huyệt âm. Âm – Dương giao hòa => thánh nhân ra đời. Chính vì là nơi linh địa
nên nơi đây đã trở thành nơi huyền bí, dẫn tới hình thành các chùa và gây tâm
lý sùng bái tâm linh trong lòng người dân nơi đây. Thứ hai, ở nơi đây các tôn giáo lớn như Nho, Đạo và Thiên Chúa với
tư tưởng xa lạ tỏ ra không phù hợp với lối sống phóng khoáng của người dân nơi
đây. Thứ ba, An Giang là vùng địa đầu
Tổ quốc, nơi thường có chiến tranh liên miên và nạn dịch đe dọa cuộc sống người
dân dẫn tới người dân sợ sệt trước tình thế mới. Đó là những lý do khiến tín
ngưỡng “Ông Đạo ra đời – đầu tiên là Bửu Sơn Kỳ Hương của Đoàn Minh
Huyên. Ra đời vào năm 1849, Bửu Sơn Kỳ Hương đã sáng tạo ra lý thuyết “Tứ ân”;
kêu gọi mọi người nêu tránh những tai ương, phiền muộn và những thói hư tật xấu
để đến với Phật; học Phật (tu theo
Phật pháp) kết hợp với Tu thân (tu
tâm sửa tính) giúp con người sống tốt hơn – học Phật có kết hợp với làm việc để
nuôi sống bản thân. Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển đã nhanh chóng lôi cuốn nhiều
người dân đi theo – trong đó có Trần Văn Thành, một đệ tử kiệt xuất của Phật
Thầy; đã theo và nhập đạo của Phật Thầy.
Đó là hoàn cảnh lịch sử ở vùng đất
Việt Nam thời Nguyễn, đặc biệt là vùng An Giang xưa, nơi mà Trần Văn Thành sinh
ra và lớn lên, mở đất và đánh giặc cứu dân làng, cứu đất nước.
a. Thời niên thiếu
Trần Văn Thành ( ? – 1873), là một nhân vật lịch sử
rất đặc biệt của vùng đất An Giang xưa. Giống như Phật Thầy Tây An Đoàn Minh
Huyên, cuộc đời của ông từ lâu đã được các nhà nghiên cứu xem xét và thảo luận
rất nhiều. Về tên gọi, căn cứ vào các tài liệu chúng tôi thu thập được thì
chúng tôi xác định: ông có tên gọi chính thức là Trần Văn Thành[3]
(“người thành tài họ Trần”). Còn các tên gọi khác như Quản cơ Thành (khi làm Chánh quản cơ), Đức Cố quản (tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương gọi
tôn), Trần Vạn Thành (theo tài liệu
của Pháp, 1875)[4]….là
những tên mà nhân dân thường gọi để tỏ lòng kính trọng chức vụ ông đã nắm, tôn
vinh công lao của ông với dân – với nước.
Về năm sinh,
hiện nay nhiều tài liệu viết chưa rõ ràng; nhưng tựu trung thì có 2 giả thuyết
đáng lưu ý về năm sinh của ông:
- Giả thuyết đầu tiên của Nguyễn Văn
Hầu, Trần Thu Lương và con cháu của Trần Văn Thành ở An Giang nói rằng, ông
sinh năm 1818.
- Giả thuyết thứ hai của Trần Thu
Lương, Trần Nam Tiến và báo chí An Giang ghi rằng ông sinh năm 1820.
- Giả thuyết thứ ba của Nguyễn Thị
Hoài Phương (Hội thảo Trần Văn Thành ở An Giang, 2010) viết là ông sinh năm
1917.
Tuy nhiên theo ý kiến của chúng tôi,
giả thuyết Trần Văn Thành sinh năm 1820 là có thể xảy ra và đúng. Các sách của
Trần Thu Lương, Trần Nam Tiến và con cháu của Trần Văn Thành cho rằng, ông sinh
vào cuối thời Gia Long (từ 1818 –
1820). Mặc khác, một số tài liệu khác của Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Hữu Hiếu cho
rằng ông sinh và hoạt động từ thời Minh Mạng (1820 – 1841) trở đi. Đặc biệt,
Nguyễn Hữu Hiếu còn nhấn mạnh thêm, Trần Văn Thành hoạt động suốt 3 triều đại,
từ đầu thời Minh Mạng (sau khi Gia
Long mất) đến Tự Đức. Tổng hợp các dữ liệu trên, tác giả cho rằng, Trần Văn
Thành có thể đã sinh ra vào thời điểm giao thời giữa Gia Long và Minh Mạng. Khi
tra cứu lại sử liệu của dòng họ vua Nguyễn và tài liệu lịch sử Việt Nam của các
tác giả có uy tín[5],
chúng tôi cho rằng thời điểm giao thời giữa Gia Long và Minh Mạng (năm ông được
sinh ra) là năm 1820. Khi đối chứng
thông tin trên với tài liệu về gia phả họ Nguyễn Phước, Chín đời chúa 13 đời vua Nguyễn của Nguyễn Đắc Xuân, tác giả cho
rằng ông sinh vào tháng 2/1820.
Nguyễn Đắc Xuân (trang 69; 83) ghi rõ: Gia Long mất vào ngày 19/2 năm Kỷ Mão
(3/2/1820), di chiếu cho Nguyễn Phước Đảm lên ngôi vào tháng 2/1820 (tháng
Giêng năm Canh Thìn; gần 15 ngày sau khi Gia Long mất).
Về quê quán, nhiều tài liệu viết khác
nhau về nơi sinh của ông, nhưng tựu trung thì có các giả thuyết sau đây xảy ra:
- Một
là, ông sinh ra ở làng Bình Thạnh Đông, đạo Châu Đốc (nay thuộc thành phố
Châu Đốc, An Giang) – gốc gác ở đạo Châu Đốc
- Hai
là, ông sinh ra ở làng Bình Thạnh Đông, đạo Châu Đốc; nhưng có gốc gác là
từ miền Trung vào.
- Ba
là, ông sinh ra ở Đồng Tháp (gốc cũng ở Đồng Tháp); xưa kia thuộc đạo Đông
Khẩu; về sau qua Châu Đốc lập nghiệp. Sở dĩ có giả thuyết này vì vào năm 2009 –
2010, người ta đã phát hiện một ngôi mộ ở rạch Thủ Điềm và một số nhà nghiên
cứu phỏng đoán là ngôi mộ của ông.
Dựa trên các tài liệu hiện có và có
sự đối sánh với thông tin từ báo đài An Giang, từ những người trong dòng họ
Trần Văn Thành, chúng tôi nghiên về giả thuyết thứ hai: ông sinh ra ở làng Bình
Thạnh Đông, nhưng có gốc là từ miền Trung. Theo khảo sát của Trần Thu Lương ở
làng Bình Thạnh Đông năm 2009 thì, ông có gốc từ miền Trung vào, và có thể họ
đã vào từ lâu đời. Tra cứu các nơi có gia phả dòng họ “Trần Văn” (dòng họ của
Trần Văn Thành) ở miền Trung, chúng tôi cho rằng ông có gốc gác ở vùng Nam –
Ngãi (Quảng Nam – Quảng Ngãi) vì những lý do sau: vùng này tập trung
khá nhiều người thuộc họ Trần; vùng này từ lâu là nơi khai sinh nhiều người tài
giỏi (họ “Trần Văn” là một trong số đó), vùng này rất gần Nam Bộ là nơi Chúa Nguyễn
đang khai phá. Hưởng ứng công cuộc mở đất về phương Nam
của chúa Nguyễn, nhiều gia đình (trong đó có tổ tiên của Trần Văn Thành) từ
Thuận Quảng cho đến Nam –
Ngãi đã theo đó di cư vào Nam
từ thế kỷ XVII – XVIII; định cư ở Đồng Tháp một thời gian rồi mới di cư lên
làng Bình Thạnh Đông. Đến thời cha ông là một trung nông lớn và có uy tín, dòng
họ Trần đã trở nên lớn mạnh và có thế lực lớn. Trong thời gian này, Trần Văn
Thành đã ra đời[6],
cùng với 3 người em trai của mình. Vào đầu thế kỷ XIX, An Lương đã là một tổng
lớn với 11 thôn với khoảng 5.000 mẫu ruộng. Trong tổng số 11 thôn, có 7 thôn
được khai phá với diện tích là 2.500 mẫu; lớn nhất là thôn Mỹ Hội Đông với
1.291 mẫu ruộng. Cư dân sinh sống ở tổng An Lương lúc này khá đông: khoảng
5.000 – 6.000 người đến khai phá, nhiều nhất là người Việt chiếm 2/3 số dân nơi
đây. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra đây đó là Trần Văn Thành gốc người Việt,
người Khmer hay người Hoa ? Chưa có tài liệu nào xác định rõ vấn đề này, nhưng
theo chúng tôi thì ông là người Việt (do tên gọi rất Việt Nam , là trung nông có thế lực). Theo
nhiều tài liệu viết lại, thân sinh ông là trung nông có uy tín lớn; các con ông
sinh ra đều giỏi cả văn lẫn võ; trong đó Trần Văn Thành là nổi trội hơn hết.
Do sinh ra trong hoàn cảnh đầy biến
động, Trần Văn Thành đã hấp thu truyền thống thượng võ của gia đình; chống cái
xấu để bảo vệ lẽ phải. Theo lời kể của các bô lão ở An Giang, Trần Văn Thành là
người tầm thước; đôi mắt sáng và có khuôn mặt rất cương nghị. Ông ăn mặc giản
dị, thông minh và có sức mạnh phi thường, hay giúp đỡ người cô thế nên được
nhân dân tin yêu và kính phục – điều này tạo tiền đề giúp ông hình thành uy
tín, lãnh đạo nhân dân kháng Pháp sau này.
b. Trưởng thành
Năm 1840, dựa vào thế lực của Xiêm
La, Nặc Ông Đôn nổi loạn ở Chân Lạp, cướp ngôi anh là Ông Chân; kích động người
Khmer ở Nam Kỳ gây hấn với triều đình Huế ở Đại Nam. Để bảo vệ biên cương, Minh
Mạng lệnh cho các địa phương ở biên giới Việt – Miên tăng cường binh lực; đồng
thời kêu gọi nhân dân đầu quân cứu nước.
Theo tiếng gọi của non sông, Trần Văn
Thành ra đầu quân và được biên chế vào quân địa phương An Giang. Nhờ có võ công
và năng lực chỉ huy xuất sắc, ông đã được bổ làm Suất đội chỉ huy 50 người.
Phối hợp với quân triều đình, ông đã chỉ huy quân dân An Giang đánh bại liên
quân Xiêm – Chân Lạp ở trận Láng Cháy (1841 – 1845), đánh dẹp các cuộc khởi
nghĩa ở Trà Vinh, Sóc Trăng, sroc Chưn Num… Sau trận thắng đó, năm 1847 vua Tự
Đức vừa lên ngôi đã xuống chiếu phong ông chức Chánh quản cơ chỉ huy 500 quân (gọi là “quản cơ tinh binh”)[7]. Ít lâu sau, ông giải ngũ và về quê làm ruộng, sống đời
sống thanh bình. Trong thời gian đó, ông đã hấp thu Phật pháp của đạo Phật và
thọ giáo với đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1849),
trở thành một trong 12 đại đệ tử của Đức Phật Thầy. Đến năm 1851, khi Bửu Sơn
Kỳ Hương đã và đang phát triển mạnh với trung tâm là Tây An cổ tự, Phật Thầy
chia tín đồ thành 4 đoàn đi khai hoang, lập “trại ruộng” ở vùng An Giang xưa.
Riêng đối với Trần Văn Thành, có lẽ vì nhận thấy ông rất đặc biệt (có tài có
đức) nên Phật Thầy giao cho ông nhiệm vụ “cắm thẻ” quanh vùng Thất Sơn (An
Giang). Theo Nguyễn Văn Hầu, Trần Thu Lương thì Trần Văn Thành đã thành 4 cây “thẻ” cắm ở 4 hướng khác nhau[8];
mục đích là trấn yểm, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Đất nước thanh bình
chưa được bao lâu thì bị quân Pháp kéo tới xâm lược vào nửa cuối năm 1858. Sau
sự kiện Đại đồn Chí Hòa bị thất thủ và quân Pháp tiến đánh 3 tỉnh miền Đông Nam
Kỳ (1861 – 1862), ông đã hưởng ứng lời kêu gọi “Cần Vương” của vua, đứng lên
chống Pháp. Thế nhưng vào năm 1863, do việc phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp
xin chuộc đất không thành, Tự Đức đã lệnh cho cả nước không kháng Pháp và truy
nã các lãnh tụ kháng Pháp. Riêng về Trần Văn Thành, Phan Thanh Giản (theo lệnh
của Tự Đức) đã giao cho Trần Văn Thành truy nã Thiên Hộ Dương, nhưng ông chỉ làm cho có[9].
Tháng 6/1867, ngay sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông; Pháp bất ngờ đem quân
đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Ngày 20/6, Pháp hạ thành Vĩnh Long; rồi 4
ngày sau thì tên trung tá Galey từ Vĩnh Long dẫn 1.000 lính thủy trên tàu chiến
tấn công thành An Giang. Bị tấn công bất ngờ và không kịp phòng bị, tổng đốc
Nguyễn Hữu Cơ dẫn quan quân ra hàng giặc. Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành
đã phất cờ khởi nghĩa ở An Giang vào tháng 8/1867. Lúc bắt đầu khởi nghĩa, do
lực lượng chưa mạnh, tổ chức chưa có nên Trần Văn Thành đã liên minh với Nguyễn
Trung Trực ở Rạch Giá (1867 – 1868). Ông tích cực lập cản chặn địch, hỗ trợ
quân của thủ lĩnh Trực tấn công Pháp. Khi thủ lĩnh Trực bị tên Ansart (tham
biện Vĩnh Long) cùng với Taradel (tham biện Hà Tiên) tiến đánh cho đại bại buộc
phải lui về Hòn Chông kháng Pháp, ông đã rút về vùng Láng Linh – Bảy Thưa lập
căn cứ kháng Pháp.
Khi rút về vùng đất này, ông đã tận dụng địa hình nhiều phèn, lau sậy và
đầm lầy; đặc biệt là có nhiều cây thưa bao phủ để lập căn cứ kháng Pháp. Dựa
vào tài năng quân sự của mình, cộng với tận dụng địa hình lợi hại, ông đã tổ
chức “trại ruộng” Láng Linh – Bảy Thưa mà ông đã dày công khai phá từ năm 1851
theo lệnh Phật Thầy, thành một căn cứ địa lợi hại. Theo ghi chép của Trần Thu
Lương thì ở vùng đất này, ông đã lập ra 6 đồn theo 4 phương: Đông – Tây – Nam –
Bắc: trung tâm là đồn Hưng Trung (đại bản doanh), phía Bắc là đồn Hờ, phía Đông
là đồn Sơn Trung và đồn Giồng Nghệ, phía Nam là trạm canh ông Tà, phía Tây là
đồn Cái Môn. Để phòng thủ chắn chắn căn cứ, ông lập đồn Hàng Trằm (nằm cùng
hướng với đồn Hờ về phía Bắc vài trăm mét) và đồn Lương để cung ứng lương thực
cho nghĩa quân[10].
Mỗi đồn đều được trang bị vũ khí, với 150 quân phòng thủ. Bài vè của Vương
Thông đã mô tả sinh đông cảnh xây dựng đồn lũy trên:
“Quan quân phòng bị bốn
bên
Đông, tây, nam, bắc dưới
trên canh phòng”.
Về lực lượng nghĩa quân Bảy Thưa, ông có lẽ đã dùng uy tín của mình và
dùng phái Bửu Sơn Kỳ Hương do ông làm giáo chủ để lôi kéo người dân tham gia
khởi nghĩa Bảy Thưa để chống Pháp cứu nước. Theo tờ phúc bẩm của mật thám gửi
Tham biện Long Xuyên Lucas năm 1870, quân số của Bảy Thưa là 1.200 người; gồm
quân triều đình và số đông tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương. Về vũ khí và lương thực,
dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân An Giang thì ông đã cho kênh rạch, lập xưởng
đúc rèn vũ khí (súng điểu thương, cán thương, giáo – hiện nay vẫn còn dấu tích[11]).
Ngoài ra, ông cũng khéo léo cử người làm hương tề để hợp pháp hóa Bửu Sơn Kỳ
Hương để che mắt Pháp; cử người sang Campuchia, Thái Lan… mua vũ khí. Chính vì
tổ chức nghiêm ngặt cộng với uy tín rất cao của Trần Văn Thành, nên căn cứ Láng
Linh – Bảy Thưa[12]
không bị lộ trong một thời gian dài. Bảy Thưa thực sự trở thành “mật khu” quan trọng
của Trần Văn Thành, giúp ông trụ vững mà không bị Pháp dòm ngó trong thời gian rất
dài.
Khi đã chuẩn bị tương đối đầy đủ, ông phất cờ khởi nghĩa vào ngày
30/8/1867. Nhận thấy lúc này Pháp còn mạnh và lực lượng của mình còn yếu, ông
vội rút về Bảy Thưa để hoạt động. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, hoạt động này
không duy trì được lâu và bị Pháp đánh hơi thấy. Phát hiện âm mưu khởi nghĩa ở
Bảy Thưa, tháng 4/1872 tên Tham biện Long Xuyên Emile Puech (1871 - 1873) vội cho mật thám điều tra và
dò ra được “mật khu” của quân khởi nghĩa.
Biết
căn cứ bị bại lộ, ông thành lập đội quân “Bình Gia Nghị” và đã tiến công, đánh
phá các đồn và các đạo quân Pháp đóng dọc căn cứ. Tháng 6/1872, quân khởi nghĩa
đánh bại cuộc càn của Pháp vào Bảy Thưa; giữ vững được căn cứ. Cùng năm này
(1872), ông đã có liên kết với khởi nghĩa Lê Cẩn ở Vĩnh Long, hạ sát Tham biện
Vĩnh Long Salicetti ở Vũng Liêm. Biết không thể đánh bại được ông, Puech cho
người đi chiêu dụ[13]
ông, nhưng thất bại. Tức tối vì không khuất phục được Trần Văn Thành, tên tham
biện Puech cùng với đại úy Guyon đem quân Pháp chia thành 2 đạo thủy – bộ tấn
công ồ ạt vào căn cứ Bảy Thưa. Cuộc kháng chiến của nghĩa quân Bảy Thưa với
quân Pháp đã khởi phát. Nhưng do tương quan lực lượng chênh lệch lớn và Pháp có
hỏa lực mạnh, nghĩa quân đã rút khỏi các đồn xung quanh căn cứ và lùi sâu vào
Bảy Thưa. Trong trận đồn Sơn Trung (19/3), nghĩa quân bị Pháp đánh bại và con
trai thứ của ông là Trần Văn Chái (mới 16 tuổi) bị thương và sa vào tay giặc.
9 giờ
sáng ngày 20/3/1873, quân Pháp mở cuộc tổng tấn công vào đồn Hưng Trung – đại
bản doanh của nghĩa quân Bảy Thưa. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Tờ Le
Courrier de Saigon, số ra ngày 5/4/1873 tường thuật : “Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến
lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa
binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò
để tăng uy thế”.
Sơn Nam
cũng viết rõ : “Ông Trần Văn Thành bình tĩnh đối phó (...). Đứng sau
chiến lũy, ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ (...) ;
đồng thời đốc thúc, kêu gọi chiến sĩ hò reo rần rần, chửi rủa bọn Pháp liên hồi(...).
Trước hỏa lực mạnh của địch, nghĩa quân cuối cùng bị đánh tan: 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống; mất
16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, nhiều giấy tờ quan
trọng của ông về việc liên hệ với Nguyễn Trung Trực, vụ hạ sát Salicetti ở Vũng
Liêm năm 1872.
Xong trận đánh, quân Pháp nổi lửa thiêu rụi dinh trại, phá hủy dinh trại
của quân khởi nghĩa. Riêng vị thủ lĩnh Trần Văn Thành thì Pháp không bắt được;
vì tờ Le Courrier de Saigon không nói gì đến cái chết của Trần Văn Thành. Điều này làm
người ta nghĩa ngay đến hai giả thuyết: ông đã chết và ông bị mất tích. Tài
liệu của Phát Vĩnh thì cho rằng, ông bị Pháp giết ở Cái Dầu; tài liệu của Sơn
Nam, Nguyễn Văn Hầu và Trần Thu Lương cho rằng ông mất tích. Đối chiếu với các
tài liệu hiện có, chúng tôi nghiên về ý kiến thứ 2 cho rằng ông bị mất tích. Theo
ý kiến của tác giả, việc ông mất tích đồng nghĩa với
việc ông đã “ra đi” – ra đi trong tư thế là nghĩa sĩ và là người có ân đức, uy
tín lớn với nhân dân nên được nhân dân tưởng nhớ và tôn thờ. Nhưng dù thế nào
đi chăng nữa, sau việc Trần Văn Thành đã mất tích vào tháng 3/1873 thì cuộc
khởi nghĩa Bảy Thưa hoàn toàn tan rã.
2. Vai trò của Đức Cố
quản Trần Văn Thành trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa
Như phần trên chúng ta đã biết, Trần Văn Thành là một trong những nhân
vật kiệt xuất của đất An Giang. Sinh ra và lớn lên trên vùng đất này, Trần Văn
Thành ngay từ đầu đã tỏ rõ tài năng xuất chúng của mình trong việc hành đạo,
đánh giặc bảo vệ đất nước. Đặc biệt trong cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa do ông lãnh
đạo, bằng tài năng xuất chúng thì ông đã có những vai trò hết sức to lớn trong
việc phát động và duy trì cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa trong một thời gian khá là
dài (1867 – 1873). Vậy thì đâu là những vai trò của ông trong cuộc khởi
nghĩa ? Vai trò đó được thể hiện ra sao trong khởi nghĩa Bảy Thưa ? Để
trả lời những câu hỏi đó, theo chúng tôi thì những vai trò của ông đó là :
Thứ nhất, ông là người đã đề ra
giải pháp kháng chiến chống giặc Pháp trong tình thế đất nước bị khủng hoảng
sâu sắc, quân Pháp từng bước xâm chiếm lục tỉnh Nam Kỳ. Để giải quyết vấn đề
này, trước tiên chúng ta tìm hiểu về các xu hướng, tư tưởng của triều đình
trước và sau khi Pháp đánh chiếm lục tỉnh Nam Kỳ. Chúng ta đã biết rằng, trước
khi Pháp xâm lược thì triều đình nhà Nguyễn vẫn đang trong giai đoạn thịnh trị,
Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính thống tồn tại suốt 50 năm của thời kỳ
thống trị của họ Nguyễn. Tuy nhiên vào thời Nguyễn, Nho giáo chịu ảnh hưởng của
phái Tống Nho của Chu Đôn Di cho nên nó có
những hành động rất tiêu cực với sự phát triển của đất nước : ngăn sông
cấm chợ, « bế quan tỏa cảng » và ngăn cản sự tiếp xúc với những trào
lưu mới đang tràn vào. Vì tư tưởng như thế nên triều đình Huế đã sa vào suy
đồi, nhân vật lực đã yếu và hầu như không còn đủ sức chống lại trào lưu bên
ngoài – nhất là trào lưu của văn minh phương tây đang ngày càng xâm nhập sâu
vào các nước châu Á ; và điều đó đã khiến thực dân Pháp, một lực lượng vũ
trang rất mạnh với khoa học kỹ thuật, súng đạn rất hiện đại và tối tân ;
dễ dàng tấn công vào Việt Nam vào năm 1858.
Khi quân Pháp bất ngờ tràn vào, người dân và quân đội Nguyễn hết sức bất
ngờ và bị động về mọi mặt. Không hề được thông báo cổ động, không chuẩn bị kịp
tinh thần và vũ khí trước để chống giặc; nhân dân Nam Bộ đã bị tai họa ập xuống
vào đầu mình. Hơn thế nữa, sự bạc nhược và hèn nhát của triều đình làm nhân dân
rất căm phẫn tột cùng. Chính vì những lý do trên, giới sĩ phu và nhân dân yêu
nước phân hóa thành 3 xu hướng :
- Xu hướng thứ nhất : đầu hàng vô điều kiện, cam tâm làm nô lệ cho
kẻ xâm lược.
- Xu hướng thứ hai : hòa nghị, không hợp tác với Pháp.
- Xu hướng thứ ba : đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Trong 3 xu hướng trên, xu hướng thứ ba là xu hướng chủ yếu nhất, được
đông đảo nhân dân (trong đó có Trần Văn Thành) hưởng ứng nhiệt liệt. Việc Trần
Văn Thành chọn xu hướng thứ ba cũng là có lý do của ông. Như chúng ta đã biết,
lịch sử Việt Nam
là lịch sử của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm – nhất là kháng
chiến chống giặc Trung Hoa (hơn 10 thế kỷ). Trong các cuộc kháng chiến đó, chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm đã
được nhen nhóm trong tâm hồn, lòng của ông và điều đó cũng đã giúp ông vượt qua
được rào cản « trung quân, ái quốc » của triết lý Nho giáo cằn cỗi,
không hợp thời để đứng lên kháng chiến. Một lý do nữa, đó là truyền thống gia
đình từ lâu đời của ông. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống tốt
đẹp, tinh thần thượng võ (ông rất giỏi võ nghệ) và lòng thương người ;
điều đó phần nào khuyến khích ông chọn xu hướng thứ ba này. Để thực hiện, ban
đầu ông kháng chiến, hướng ứng và hỗ trợ các cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương
ở Đồng Tháp, Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá. Do bị triều đình ngắn cản kháng
chiến, ông tiếp tục hưởng ứng phong trào « tỵ địa » của Phan Văn Trị,
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông…. (1862 – 1867). Nhưng vì nhiều lý do khác nhau;
nhất là sau sự kiện Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ thì ông quyết định
bãi bỏ giải pháp « tỵ địa », chọn giải pháp quyết chiến với kẻ thù,
bảo vệ quê hương xứ sở mà trước đây Trương Định, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân…
đã chọn lựa. Việc chọn giải pháp tiếp tục chiến đấu đến cùng, không thỏa hiệp
là kết quả của nhiều ngày đêm trăn trở, suy nghĩ về vấn đề trung quân – ái quốc
của ông. Vì sự suy nghĩ sáng suốt đó, ông đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, nổi
lên khởi nghĩa vào tháng 8/1867. Sau khi chống Pháp thất bại năm 1867 – 1868,
ông rút về Láng Linh – Bảy Thưa, xây dựng căn cứ và tổ chức lực lượng để chiến đấu chống Pháp đến cùng để cứu
nguy nước nhà.
Thứ hai, ông đã chọn vùng Láng
Linh – Bảy Thưa là nơi có địa hình thuận lợi để lập căn cứ, tổ chức lực lượng
kháng chiến chống Pháp. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, chính Trần Văn Thành là
người chọn vùng Láng Linh – Bảy Thưa lập căn cứ kháng chiến chống giặc. Thực
ra, không phải ngay từ khi vào cuộc kháng chiến thì ông mới chọn vùng Láng Linh
– Bảy Thưa làm căn cứ mà ông đã chọn vùng đất này theo chỉ định của Đức Phật
Thầy Tây An, khi Phật Thầy cho tổ chức các đoàn khai hoang vào vùng An Giang
vào năm 1851. Về việc Phật Thầy chọn vùng Láng Linh (Thất Sơn) làm nơi khai
hoang có lý do của nó. Theo chúng tôi, những lý do đó là :
- Vùng Láng Linh là vùng được nhiều nhà phong thủy nói là vùng linh địa
(nơi trời – đất giao hòa), rất linh thiên và đang chờ đợi ngày khai mở. Phật
Thầy Tây An tiên đoán rằng, trước đây những thầy địa lý người Hoa và cha con họ
Mạc từng trấn ếm phá hoại nhiều nơi ; nên mới phái Trần Văn Thành đi
« phá ếm » vùng này.
- Vùng Láng Linh là vùng đất nhiều lau sậy, đầm lầy và có khá là nhiều
cây thưa mọc um tùm (nay chỉ còn sót lại vài cây còn sống) bao quanh một khu
vực khá rộng lớn và lũy tre khá dày đặc, hoang vu nên gần như tách biệt với bên
ngoài.
Chính vì những lý do đó nên Phật Thầy Tây An giao cho Trần Văn Thành
khai phá vùng Láng Linh – Bảy Thưa. Ở vùng này, ông đã cắm thẻ ở 5 nơi để
« trấn yểm khí » và biến nơi đây thành « trại ruộng » cho
nhân dân (chủ yếu là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương) khai phá, lập làng xã. Cũng tại
« trại ruộng » mới này, ông tiếp nhận đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của thầy
mình, truyền bá vào đông đảo tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương ở Láng Linh – Bảy Thưa.
Hoạt động « đạo » gắn với « đời » của ông thực tế đã ăn sâu
vào trong lòng nhân dân, tạo động lực cho nhân dân sản xuất nuôi sống bản
thân ; đồng thời lôi kéo được thêm người dân từ nơi khác vào vùng này, làm
cho dân thêm đông lên và vùng này dần dần thành một « khu định cư »
lớn, tách dần khỏi sự cai trị của chính quyền và lập một khu vực độc lập rất
tương đối (giống như hình thức « Kibbutz » - một loại khu định cư đặc
trưng của người Do Thái thời cổ)[14].
Về sau, dựa vào những điều kiện sẵn có thì ông dần biết nơi này thành một
« mật khu », một căn cứ địa để chống quân Pháp xâm lược.
Năm 1867, sau sự kiện quan quân triều đình đầu hàng nhục nhã khi Pháp
công phá thành An Giang, Trần Văn Thành đã đem quân chống lại chúng. Nhưng do
lực lượng còn non yếu và chưa có « hậu phương » vững chắc, ông đã bị
Pháp đánh bại và phải rút về vùng Láng Linh – Bảy Thưa để xây dựng căn cứ, củng
cố lực lượng. Theo tài liệu của Trần Thu Lương, ông cho xây dựng ở nơi đây 5
đồn lớn theo 4 hướng : Đông – Tây – Nam – Bắc với trung tâm là đồn Hưng
Trung ; phía Bắc là đồn Hờ, phía Đông là đồn Sơn Trung và đồn Giồng Nghệ,
phía Nam là đồn ông Tà, phía Tây là đồn Cái Môn. Mục đích của việc lập đồn
là : quan sát được 4 phương 8 hướng, đề phòng các cuộc tấn công từ xa tới.
Hơn nữa, việc lập đồn còn nhằm mục đích thu hút, lôi kéo người dân về với khởi
nghĩa thông qua tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước mà các tín đồ Bửu Sơn Kỳ
Hương đem đến cho họ. Áp dụng triệt để « Ân đất nước » trong thuyết
Tứ ân của Bửu Sơn Kỳ Hương, các tín đồ từ nơi này đã tỏa đi khắp nơi và nhờ đó
đã lôi kéo số khá đông tín đồ ở Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau... đến với mình, bổ
sung vào làm lực lượng càng thêm mạnh. Theo báo cáo của mật thám gửi Tham biện
Long Xuyên năm 1870, lực lượng của nghĩa quân là 1.200 người – chứng tỏ sức lôi
kéo mạnh mẽ của Bảy Thưa tới quần chúng nhân dân. Thế nhưng, một vấn đề mà
chúng tôi muốn đặt ra ở đây là vấn đề cây
thẻ và đồn binh Bảy Thưa, về mối quan hệ giữa cây thẻ và đồn binh Bảy Thưa.
Tại sao khi lập đồn binh, ông không chọn các nơi cắm thẻ để lập đồn mà lại chọn
nơi khác ? Thực chất của việc đó là gì ? Vấn đề này hiện nay cũng hết
sức nan giải, nhiều ý kiến được đưa ra ; nhưng theo chúng tôi thì như thế
này : ông không đóng đồn ở những nơi cắm thẻ vì sẽ làm lay động đến sự
« trấn yểm » nơi đây, điều mà trước đây ông chưa muốn hay chưa nghĩ
tới (ý nói đến tâm linh của người dân) ; không đóng đồn ở các nơi này vì
sợ bị phát hiện.
Hiện chưa có tài liệu nào mô tả về cách xây đồn binh, đóng quân và vũ
khí của nghĩa quân Bảy Thưa cho nên rất khó khi mô tả một cách tương đối về vấn
đề này. Theo ý kiến của chúng tôi, sống trong một xã hội phong kiến lạc hậu thì
ngay cả đồn binh của quân đội Nguyễn làm khá sơ sài và lạc hậu, huống hồ là
những người nông dân áo vải, tay không một tất sắt và phiêu bạt khắp nơi ở miền
Nam .
Họ đứng lên kháng chiến trong tình cảnh Pháp bắt đầu lấn tới hết các tỉnh Nam
Kỳ, hậu phương Campuchia lại rơi vào tay giặc. Cho nên họ có thể đã xây các đồn
binh, tự trang bị vũ khí rất thô sơ. Theo đó thì những người nông dân áo vải
này, theo lệnh của chủ tướng đã vào tận rừng sâu tìm cây để lấy gỗ làm
nhà ; lấy lá dừa khô lợp làm mái và dưới đất thì đắp lên cao để làm nền
cho đồn (cao khoảng 1 – 2 m). Họ đã làm như thế trong nhiều tháng không ngơi
nghỉ, cuối cùng đã lập thành những đồn binh khá lớn. Diện tích các đồn binh
hiện chưa rõ là bao nhiêu. Theo Nguyễn Văn Hầu thì những đồn binh đó chứa được
150 chiến sĩ phòng thủ với các cỗ đại bác khá lớn ; vậy thì diện tích của
đồn binh khá lớn, khoảng gần 5 m2/đồn; chiều cao mỗi đồn khoảng độ
gần 4 – 5 m; cao nhất là đồn Hưng Trung, khoảng 7 – 8 m; riêng cái nền là cao
gần 1 m[15].
Cuộc cứ hiểm đã ngăn nắp, Trần Văn Thành
tổ chức cho binh sĩ phải đi lẻ tẻ từ đồn này sang đồn khác và phải đi khắp nơi
chứ không đi hoài một chỗ. Nơi nào có ngã rẽ thì lấp bằng cây, hoặc trồng cây
lên trên dể khỏi bị lộ tung tích. Về vấn đề lực lượng vũ trang của nghĩa quân,
họ tự túc là chính và trông chờ nhiều vào sự giúp đỡ của nhân dân xung quanh.
Theo các tài liệu đã ghi nhận, ông đã nhờ người thân của mình dùng danh nghĩa
Bửu Sơn Kỳ Hương để chiêu mộ ; nhờ đó người dân khắp nơi « kéo đến
rần rần » (vè Vương Thông) và ít bị lộ ra bên ngoài. Khi muốn liên lạc ra
bên ngoài, nghĩa quân cử người ra làm hương tề để có giấy tờ che mắt Pháp; nhờ
cách đó mà nghĩa quân hòa vào quần chúng mà ít bị phát hiện. Về vũ khí, dựa vào
sự giúp đỡ của nhân dân thì nghĩa quân đã chế tạo thành công súng điểu thương,
giáo, mác... mà dấu tích còn để lại là những cái đe đúc súng, lò đúc gươm, hầm
vũ khí ... bị vùi sâu trong đất gần 100 năm, mãi đến năm 1936 – 1988 thì người
ta đã khai quật và tìm ra chúng. Một điểm sáng tạo của Trần Văn Thành khác xa
với người cùng thời, là ông chế tạo được súng điểu thương lớn theo kiểu
« ống lói » (khá tiến bộ), nhưng có lẽ do không có xẻ rãnh[16] nên bắn không xa và ít
trúng mục tiêu nên thiệt hại không lớn.
Thứ
ba, ông đã dùng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương như là công cụ tập hợp
lực lượng để chống giặc ngoại xâm. Như chúng ta đã biết, Bửu Sơn Kỳ Hương
(nghĩa là : núi báu kỳ lạ) là một giáo phái (không phải tôn giáo) được
thành lập vào năm 1849 tại An Giang. Với lý thuyết « Tứ ân » (ân cha
mẹ, ân tổ tiên, ân tam bảo và ân đất nước) mà cốt lõi là « tâm
thành » làm gốc, « hướng thiện » làm mục đích và cố kết cộng
đồng, Bửu Sơn Kỳ Hương đã phá tan những chuẩn mực cũ, xáo rỗng của Nho, Phật và
Đạo giáo ; những học thuyết xáo rỗng và phi thực tế để nhằm hướng đến cho
con người có cuộc sống tốt đẹp hơn, kích thích họ xích lại gần nhau, đoàn kết
với nhau trong hoàn cảnh khẩn hoang bơ vơ trước một khung cảnh thiên nhiên
hoang vu và huyền bí. Những hoạt động chữa bệnh, tuyên truyền lòng yêu thương
đồng bào nhân loại, tổ tiên của Phật Thầy Tây An là một thứ thuốc an thần hữu
hiệu cho những tâm hồn bất an đầy sóng gió ở vào giai đoạn khủng hoảng toàn
diện của xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Thêm nữa, việc Bửu Sơn Kỳ Hương
cách tân về hình thức tu luyện, đơn giản hóa những tập tục rườm rà của Phật như
cắt tóc, ăn chay hay xuất gia nên đã thu hút số đông tín đồ tham gia, và Trần
Văn Thành nằm trong số đông tín đồ đó. Ông đã đến với Bửu Sơn Kỳ Hương đầu
tiên, ngay sau khi giáo phái này khai sinh không lâu. Theo tài liệu của Nguyễn
Văn Hầu, ngay sau khi giải ngũ thì Trần Văn Thành về quê nghỉ ngơi, đọc các
sách Phật và chiêm nghiệm những điều Phật dạy. Không những thế, để phát triển
học thuật Phật giáo của mình thì ông đã đến và thọ giáo đức Phật Thầy Tây An
Đoàn Minh Huyên và giáo phái của Đức Phật Thầy. Ông thọ giáo và tiếp thu rất
nhanh, cuối cùng trở thành đại đệ tử đầu tiên của Đức Phật Thầy. Mặc khác, do
nhìn thấy tướng mạo rắn chắc, nghiêm nghị và cao ráo của ông ; đồng thời
thì Phật Thầy hỏi thăm ông thì biết ông là võ tướng của triều đình đã nghỉ hưu,
nên Phật Thầy đã hỏi thăm ông rất nhiều và có những tình cảm đặc biệt về con
người này. Phật Thầy khi tiếp ông đã gọi ông một tên gọi rất thân
thương là « Chú Xã », kính trọng ông. Và có lẽ, về sau thì Trần
Văn Thành mới hiểu tên gọi của Thầy dành cho mình là : « Xã » là
lãnh đạo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, chỉ huy nhóm kháng chiến ở Bảy Thưa.
Không chỉ có tình cảm đặc biệt qua tên
gọi, Đức Phật Thầy còn có tình cảm đặc biệt nữa với ông khi cử ông đi cắm thẻ ở
vùng Láng Linh – Bảy Thưa, là vùng mà đoàn khai hoang của ông đã và đang khẩn
hoang vùng đất này. Theo nhiều tài liệu cũng như truyền thuyết dân gian về Trần
Văn Thành ghi lại, ông đã cắm thẻ ở 5 nơi chung quanh vùng Thất Sơn để trấn yểm
của bọn thầy phong thủy Trung Hoa đang tìm cách phá hoại, đồng thời là bảo vệ
vùng đất người Việt đã khai phá. Trên thực tế, đoàn khai hoang của ông (do Phật
Thầy chỉ thị ông thực hiện) đã trở thành lực lượng khai hoang lớn ở Nam Kỳ.
Khi Pháp xâm lược An Giang, Bửu Sơn Kỳ
Hương đã lớn mạnh ở vùng đất An Giang, thu hút nhiều tín đồ thì Trần Văn Thành,
đệ tử đầu tiên thừa kế giáo phái này sau khi Phật Thầy mất không lâu (1856) đã
biến nó trở thành công cụ cho cuộc khởi nghĩa sắp tới của mình – khởi nghĩa Bảy
Thưa. Kế thừa giáo phái này trong tình cảnh đất nước bị Pháp xâm lược, phong
trào đấu tranh của nhân dân đang sôi sục chống Pháp, ông có lẽ đã cải cách một
chút ít về tư tưởng của giáo phái. Trong lý thuyết « Tứ ân » của giáo
phái này, ông chú trọng đến khía cạnh « Ân đất nước », coi đó là vũ
khí tư tưởng hết sức quan trọng trong cuộc khởi nghĩa. Ông kêu gọi mọi người
phải « hưởng những tất đất, ăn những ngọn rau ta cảm thấy có bổn phận phải
bảo vệ đất nước khỏi họa xâm lăng giày đạp. Phải nâng đỡ đất nước trong lúc đói
nghèo làm cho trở nên cường thịnh. Nếu ta không có đủ tài lực để làm nên việc
lớn, chưa gặp thời cơ giúp đỡ quê hương, ta hãy tránh làm những điều gì sơ suất
đến nỗi làm cho nước nhà phải đau khổ và đừng để kẻ ngoài địch gây tổn thương
cho đất nước ». Chính vì những giáo lý hết sức căn bản về chiến đấu chống
ngoại xâm, chủ nghĩa yêu nước có từ lâu đời trong tâm khảm nhân dân Việt
Nam ; cho nên các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đã nhanh chóng cuốn hút tự nhiên
vào cuộc khởi nghĩa do lãnh tụ của họ khởi xướng. Điều này cũng giải thích được
vì sao khi Trần Văn Thành phát động cuộc khởi nghĩa thì ngay lập tức, các tín
đồ Bửu Sơn Kỳ Hương hưởng ứng nhiệt liệt cuộc khởi nghĩa. Dưới hình thức được
bọc trong lớp vỏ tôn giáo, Trần Văn Thành bằng hình thức tuyên truyền và hành
hương của giáo phái này nên đã thu hút rất đông tín đồ tham gia cuộc khởi
nghĩa. Không khí « kéo đến rần rần » của tín đồ với cuộc khởi nghĩa trong
vè Vương Thông đã chứng minh điều đó ; điều đó cũng góp phần giải thích
tại sao sự tụ họp của tín đồ vào cuộc khởi nghĩa làm cho thực dân ít bị nghi
ngờ, bởi tất cả những kẻ thống trị đều thận trọng khi đụng chạm đến vấn đề tín
ngưỡng. Nhờ vậy mà trong khoảng thời gian kéo dài từ 1868 – 1872, việc chuẩn bị
lương thực, vũ khí và lực lượng của nghĩa quân Bảy Thưa không bị Pháp phát
hiện, hoặc nếu chúng biết thì chúng không thể đàn áp thô bạo được.
Vậy thì, một vấn đề được đặt ra là cuộc
khởi nghĩa của Trần Văn Thành có phải là cuộc khởi nghĩa mang tính tôn giáo hay
không, hay chỉ là cuộc khởi nghĩa vũ trang thông thường ? Theo ý kiến của
chúng tôi, hoạt động khởi nghĩa của ông là khởi nghĩa vũ trang, nhưng được
khoát vào cái áo tôn giáo như một chỗ dựa, một thứ « vũ khí » cho
quân khởi nghĩa. Khởi nghĩa của ông rõ ràng là hành động chiến đấu vũ trang
chống lại quân xâm lược Pháp. Bằng lòng yêu nước và bất khuất, cộng thêm ảnh
hưởng của giáo phái (đạo – đời) của ông, các nghĩa sĩ Bảy Thưa đã chiến đấu
quên mình vì sự độc lập của đất nước, vì non sông Tổ quốc. Trong sách lý luận
về cách mạng thế giới, V. I. Lenine có nhận định rõ :
« Sự
phản kháng chính trị dưới màu sắc tôn giáo là hiện tượng chung cho tất cả các
dân tộc đã phát triển đến một giai đoạn nào đó ».[17]
Khởi nghĩa Bảy Thưa đã hình thành, phát
triển theo một quy luật như thế từ ngàn đời: có áp bức thì có đấu tranh. Khi họ
hy sinh vì nước thì họ được người ta kính trọng và tôn thờ, mà tín ngưỡng thờ
phụng các vị anh hùng dân tộc lâu đời của Việt Nam là ví dụ cụ thể. Di tích
« Bửu Hương tự » do con trai trưởng của ông là Trần Văn Nhu lập ra
năm 1897 cũng nhằm tôn vinh ông và nhưng nghĩa sĩ Bảy Thưa hy sinh vì nước.
Thứ
tư, ông là người đã nhóm lên ngọn lửa kháng chiến ở nơi xa
xôi (An Giang) trong lúc kẻ thù dập tắt hầu hết các cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ
lục tỉnh. Trong hoàn cảnh đất nước bị họa xâm lăng của Pháp, vì lòng yêu nước
và ý chí quyết tâm bảo vệ non sông nên ngay từ đầu thời Pháp đánh Nam Kỳ, Trần
Văn Thành đã nổi dậy đánh quân Pháp. Tuy nhiên, so với các lãnh tụ kháng Pháp
cùng thời như Trương Định, Nguyễn Trung Trực và Nguyễn Hữu Huân, Trần Văn Thành
có điểm khác : không dấy nghĩa ở trung tâm Sài Gòn – Gia Định như Trương
Định, không lập nhiều chiến công vang dội như Nguyễn Trung Trực và không ba
phen dấy nghĩa như Nguyễn Hữu
Huân ; mà chính ông đã nhóm lên ngọn lửa kháng chiến ở nơi xa xôi (An
Giang) trong lúc kẻ thù dập tắt hầu hết các cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ lục tỉnh
(1861 – 1867). Giải thích cho vấn đề này, tác giả cho rằng trong thời gian này,
khi Pháp xâm lược thì đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp nơi chống
lại ; đồng thời trong nội bộ giới quan lại – sĩ phu xảy ra mâu thuẫn giữa
vấn đề trung quân – ái quốc ; Trần Văn Thành chính là nhân vật chịu ảnh
hưởng của những lý do đó. Đặc biệt, vấn đề mâu thuẫn giữa vấn đề trung quân –
ái quốc ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết. Có gốc là từ một gia đình
trung nông có truyền thống thương người, thượng võ; Trần Văn Thành ngay từ thời
niên thiếu đã thể hiện lòng thương người, giúp đỡ người cô thế chống lại bọn
quan lại, cường hào gây sự và nhũng nhiễu dân nghèo. Khi quân Pháp xâm lược, hòa
vào các phong trào đấu tranh của nhân dân thì ông cũng đã dấy nghĩa ngay từ
đầu.
Nhưng khi triều đình ra lệnh cấm các cuộc
khởi nghĩa, nã tróc các lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa thì Phan Thanh Giản, vì tin
cẩn Trần Văn Thành nên giao hết việc nã tróc các lãnh tụ kháng Pháp cho Trần
Văn Thành. Nhận được công việc đã giao, ông vừa mừng vừa lo lắng ; nhưng
lo lắng nhiều hơn. Ông băn khoăn, suy nghĩ rất nhiều : giữa trung quân và
ái quốc, mình nên chọn cái nào ? Quả là một câu hỏi rất khó trả lời. Trả
lời thì trả lời được đấy, nhưng trả lời như thế nào cho hợp lẽ, đúng đạo lý
người Việt mới là vấn đề lớn. Trong thâm tâm con người của quan lại, sĩ phu và
những người dân mặc áo lính, mâu thuẫn giữa vấn đề trung quân và ái quốc, nói
nôm na là theo lệnh vua hạ vũ khí hay chiến đấu đến cùng bảo vệ độc lập. Và khi
vào năm 1867, việc Pháp xâm chiếm toàn bộ Nam kỳ và các cuộc khởi nghĩa gần như
bị địch đàn áp hết đã đẩy mâu thuẫn đó lên đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải có sự
chọn lựa dứt khoát : trung quân,
hoặc là ái quốc. Và lãnh tụ của đất
An Giang đã có câu trả lời một cách đanh thép : chiến đấu đến cùng, không thỏa hiệp. Đó chính là kết quả của hơn 5
năm suy nghĩ, tìm ra phương hướng mới cho mình. Trần Văn Thành đã làm đúng, và
ông đã thực hiện công việc này cho đến khi hy sinh vì non sông. Ở vùng An
Giang, sở dĩ cho đến 1867 ông mới nhen nhóm ngọn lửa kháng chiến vì ông không
muốn đất An Giang này rơi vào tay giặc, bị giày xéo dưới gót chân xâm lược của
chúng ; và càng không muốn giặc bén mảng đến vùng đất mà nhiều người cho
rằng có linh địa (linh thiên) này. Mặc khác, ông dấy nghĩa trong thời gian này
cũng kịp lúc; vì lúc đó An Giang (nơi ông đóng quân) có khá nhiều cuộc khởi
nghĩa của nhân dân hưởng ứng ; một điều nữa là An Giang sát nách với
Campuchia. Campuchia mặc dù cũng bị Pháp đặt ách thống trị từ năm 1863, nhưng
không lúc nào giặc được yên vì chúng luôn phải đối mặt với hàng loạt cuộc khởi
nghĩa chống lại chúng – lớn nhất là khởi nghĩa của Acha-Soa và Pucompo (1864 –
1867), Shivotha. Trần Văn Thành đã dùng tình cảm tốt đẹp của nhân dân Việt –
Campuchia để biến Campuchia thành hậu phương lớn, hỗ trợ cho hậu phương tại chỗ
trong cuộc kháng Pháp về sau này.
Tóm lại qua bài tham luận này, tác giả phần nào khắc họa
một bức tranh sinh động về cuộc đời, sự nghiệp của Quản cơ Thành – một người
con ưu tú của đất An Giang và là một vị anh hùng dân tộc. Mong rằng thông qua
bài viết này, giới trẻ An Giang sẽ có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về Trần
Văn Thành – người có công lao lớn trong việc xây dựng, phát triển và bảo vệ
vùng đất An Giang xưa; qua đó thức tỉnh giới trẻ cố gắng học tập để sau này về
quê hương An Giang, xây dựng nơi đây thành nơi giàu đẹp.
Tài liệu tham
khảo:
1. Nguyễn Văn Hầu (1956), Đức Cố quản hay là cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa,
NXB Tân Sanh, Sài Gòn.
2. Nguyễn Hữu Hiếu (2010),
“Trần Văn Thành – một điển hình của hào khí Đồng Nai, Cửu Long”, Tạp chí Hội khoa học lịch sử Đồng Tháp,
số 34, Đồng Tháp.
3.
Huỳnh Lứa (1987),
Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ,
NXB Tp. Hồ Chí Minh.
4.
Trần Thu Lương,
Võ Thành Phương (1991), Khởi nghĩa Bảy
Thưa (1867 – 1873), NXB Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh
5. Hội
nghiên cứu Đông Dương (1903), Monographie
de la province de Trà Vinh , Saigon.
6.
Sơn Nam (1974), Nói
về miền Nam – Cá tính miền Nam, NXB Đông Phố, Saigon
7.
Nhiều tác giả (2010), Kỷ yếu Hội thảo cuộc khởi nghĩa Bảy
Thưa và lễ hội văn hóa truyền thống huyện Châu Phú, Phòng Văn hóa Thông tin huyện Châu Phú (An
Giang) xuất bản, An Giang.
8.
Nguyễn Phan Quang (2000),
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến
năm 1884, NXB Tp. Hồ Chí Minh
9.
Quốc Sứ quán triều
Nguyễn (1972), Đại Nam thực lục chính
biên, tập 9, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
10.
Phát Vĩnh (1987), “Đốt lò hương cũ”, báo An Giang, số ngày 26/6/1987.
[1] Đại học
Sài Gòn
[2] Đại học
Khoa học Xã hội Nhân văn
[3]
Nhiều tài liệu như Đức Cố quản hay là cuộc
khởi nghĩa Bảy Thưa của Nguyễn Văn Hầu ; Khởi nghĩa Bảy Thưa của Trần Thu Lương, Võ Thành Phương ; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của
Nguyễn Quốc Thắng, Cá tính miền Nam của
Sơn Nam... đều khẳng định họ tên của ông là Trần Văn Thành. Đặc biệt, Trần Thu Lương trong Khởi nghĩa Bảy Thưa đã khẳng định ông là Trần Văn Thành vì ông có 3
người em trai là là Trần Văn Lập, Trần Văn Hạt và Trần Văn Ấn. Xin ghi lại đây
để tham khảo.
[4] Với tên gọi “Trần Vạn
Thành” của ông; theo ý kiến của chúng tôi thì có 3 nguyên do: Một là,
tên gọi này được thuộc hạ Nguyễn Kế Trung đổi đi để che mắt Pháp. Hai là, do phát âm gần giống của người Nam Bộ nên họ viết sai mà ra; ví dụ, chữ “Dun”
(khô héo) đọc thành chữ “Dung” (nội dung). Ba
là, để “thần thánh hóa” và tôn vinh ông. Chữ “Vạn” ý nói ông là vị tướng
chỉ huy 1 vạn quân “Bình Gia Nghị” –
lôi kéo tín đồ, tăng thanh thế và uy tín của ông trong việc khai hoang và chống
giặc ngoại xâm.
[5]
Các tác giả có uy tín viết về lịch sử Việt Nam cổ trung đại như Nguyễn Phan
Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Khánh Toàn… đều ghi ông sinh năm 1820. Xin ghi
lại đây để tham khảo.
[6]
Thông tin này là thông tin được chúng tôi suy luận dựa trên 2 tài liệu hiện có
là của Nguyễn Văn Hầu và Trần Thu Lương. Chúng tôi cho rằng, đến thời cha của
Trần Văn Thành (đầu thế kỷ XIX) là trung nông lớn, có thế lực nhất ở tổng An
Lương, Châu Đốc. Trong suốt thời Gia Long, cha của Trần Văn Thành đã kêu gọi
nhân dân khai hoang và mở thành những đồn điền lớn – có thế lực rất lớn. Khi
người cha này sống đến 30 – 40 tuổi thì ông hạ sinh ra Trần Văn Thành. Xin ghi
lại đây để tham khảo.
[7]
Năm ông được thăng làm Chánh quản cơ
viết theo tài liệu của Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Văn Hầu là năm 1847. Hiện giờ
người ta chưa rõ tờ chiếu vua Tự Đức phong cho Trần Văn Thành hiện còn, hay đã
mất ? Xin nêu vấn đề để làm rõ.
[8] - Cây số 1 là “Đông Phương Thanh Đế”, cắm ở làng
Vĩnh Hanh huyện Châu Thành (ngày nay còn di tích là dinh Ông Thẻ).
- Cây số 2 là “Bắc Phương Hắc Đế”, cắm ở xã Vĩnh
Thạnh Trung huyện Châu Phú.
- Cây số 3 là “Tây Phương Bạch Đế”, cắm ở làng Bà
Bài, xã Vĩnh Tế
- Cây thứ 4 là “Nam Phương Xích Đế”, cắm tại
Giồng Cát ( thuộc rừng Tràm ).
Riêng cây thẻ Trung ương Huỳnh Đế được làm bằng đá đặt
tại núi Cấm, xã Văn Giáo huyện Tịnh Biên.
[9] Quản cơ Thành và đã gặp thủ lĩnh Dương,
rồi trở thành bạn bè vì chung chí hướng ("Đã biết đó lo đền nợ thủy thổ/
Đây cũng lòng ái quốc ưu dân" [trích thơ Quản cơ Thành]). Cùng quan điểm
với Quản cơ Thành, thủ lĩnh Dương sau đó đã dùng chiến thuật "yểm kỳ tức
cổ" (giấu cờ im trống) một thời gian
[10] Hiện
nay, vị trí các đồn như sau:
- Đồn
Hưng Trung: nằm trên Cốc ông đạo Cậy (gọi là cốc ông Tư). Theo Trần Văn Đông
trong Kỷ yếu khởi nghĩa Bảy Thưa
(2010, tr. 83) thì sau khi Hưng Trung bị phá thì ông đạo Cậy đã đến đây dựng
cốc tu hành. Đến năm 1930, người dân đã xây chùa
Nam
Long ngay trên nền cốc đạo Cậy (lời ông Chín Tửu – trụ trì chùa Nam Long)
và hiện nay vẫn còn. Võ Thành Phương trong Kỷ
yếu khởi nghĩa Bảy Thưa (2010, tr. 25) cũng nói thêm: Hiện nay, ở cầu dây
treo số 13 (ngang UBND xã Bình Phú) có một ngôi là Dinh Hưng Trung, song đó chỉ
là tên do nhân dân đặt ra để tưởng nhớ khi dựng ngôi đền này.
- Đồn Sơn
Trung: nằm bên bờ kênh 16 thuộc xã Bình Phú, huyện Châu Phú (An Giang). nay còn
dấu vết và người ta lập đền để tưởng nhớ; đối diện với đền qua kênh 16 là cánh
đồng Láng Linh rộng bao la.
- Đồn
Giồng Nghệ: nằm giữa địa giới huyện Châu Phú và huyện Châu Thành ở đầu ngọn
rạch Hang Tra. Nay không còn dấu vết.
- Đồn Hờ:
nằm trên nền chùa Đáo (nay thuộc ấp Vĩnh Quới II, xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện
Châu Phú, An Giang). Tại cuộc hội thảo năm 2010, các cụ ở địa phương xác nhận
đồn Hờ nằm trên nền chùa Đáo, và là nơi khi xưa ông Trần Minh Chiếu tụ tập tín
đồ đạo Tứ ân hiếu nghĩa vào khoảng 1874
- 1880.
- Trạm
canh ông Tà: hay còn gọi là Láng ông Tà, nay thuộc huyện Tri Tôn – An Giang.
Hiện không còn dấu vết.
- Đồn
Hàng Trằm: là nơi hiện nay đặt phủ thờ Đức cố quản. Đồn này không còn từ năm 1872
vì nghĩa quân đã lùi sâu vào Bảy Thưa.
- Đồn Cái
Môn: theo tài liệu Chùa Nam Long ở Láng
Linh của PGS Trần Hồng Liên (Hội thảo khởi nghĩa Bảy Thưa, 2010); có đối
chiếu với bản đồ khởi nghĩa Bảy Thưa của Nguyễn Văn Hầu, đồn này nằm giữa hai
đìa Nanh Heo và đìa Dây Trằm thuộc xã Thạnh Mỹ Tây. Nay không còn dấu vết.
- Đồn
Lương: theo tài liệu Chùa Nam Long ở Láng
Linh của PGS Trần Hồng Liên; có đối chiếu với bản đồ khởi nghĩa Bảy Thưa
của Nguyễn Văn Hầu, đồn này nay thuộc ấp Long Châu 3, xã Thạnh Mỹ Tây. Nay
không còn dấu vết.
[11]
Người ta đào được khá nhiều dấu tích về cuộc khởi nghĩa: 1935 – 1936, người ta
đào được 3 lò đúc súng ở khu căn cứ (Nguyễn Văn Hầu). Ngày 1/4/1986, nhân dân
xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú (gần Bửu Hương Các) đào được 1 hầm chứa vũ khí (8
súng điểu thương, một số đạn). Ngày 18/5/1988 trong khi đào kênh Long Châu II,
khi tới đoạn kênh cách đền Trần Văn
Thành 300 m về phía Đông Bắc, nhân dân lại đào được 1 hầm chứa vũ khí (40 cây
thương, trong đó có 13 còn nguyên; mỗi cây dài 130 cm, đường kính gần 4 cm)
[12]
Về cách gọi địa danh, “Bãi Thưa” hay “Bảy Thưa” thì đã có nhiều nhà nghiên cứu
bàn luận khá nhiều về vấn đề này. Theo ý kiến của mình, tác giả cho rằng tên
cuộc khởi nghĩa ban đầu là “Bãi Thưa”, vì nơi đây mọc nhiều cây thưa (tức loại cây rừng mọc ở vùng đất thấp ngập nước, chịu được mùa
nước nổi, cội to, lá nhỏ, hơi dài). Thời xưa, cây thưa mọc rất nhiều tạo thành
những “bãi” lớn, nhiều nhất là ở vùng Láng Linh (nay thuộc Châu Phú) – vì thế
mà người ta gọi là “Bãi Thưa”. Do cách nói gần giống của người Việt, từ “Bãi
Thưa” đọc chệch thành “Bảy Thưa”.
[13] Toàn
văn bài thơ được ghi trong Trần Thu Lương, Khởi
nghĩa Bảy Thưa, tr. 91 – 92.
[14]
Đây là thông tin tác giả thu thập được trong cuộc trao đổi với Th.s Nguyễn Thị
Hồng Cúc, giảng viên ĐH Hùng Vương. Cô đã bàn luận vấn đề này trong bài viết của
cô có tựa đề là mối quan hệ giữa “trại ruộng” của Đoàn Minh Huyên) với
“Kibbutz” của Do Thái dự hội thảo nhân vật lịch sử Đoàn Minh Huyên ở An Giang
ngày 28/9/2013. Theo đó, cô cho rằng “Kibbutz” của người Do thái có từ thế kỷ
XI – IX TCN, là hình thức khu định cư đầu tiên của dân Do Thái ở vùng Canaan
=> giống với “trại ruộng” của Đoàn Minh Huyên (sau là Trần Văn Thành); đồng
thời so sánh và đối chiếu về sự thành lập, tổ chức và cách thức hoạt động của
hai hình thức khu định cư trên. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[15]
Thông tin về cách xây dựng đồn binh của Trần Văn Thành thì chúng tôi suy luận
dựa trên tài liệu của Nguyễn Văn Hầu và Trần Thu Lương, tài liệu thực địa. Tuy
nhiên theo ý kiến của chúng tôi, với trình độ lạc hậu thì người nông dân mặc áo
lính không thể nào xây được một đồn lớn, chưa nhiều quân và vũ khí như vậy.
Nguyễn Văn Hầu nói, mỗi đồn chứa 150 quân, nhiều vũ khí thì cái này chưa hợp lý
(ông căn cứ theo lời kể của nhân dân mà viết, từ 1951 – 1955). Theo tôi, nếu
đồn muốn chứa đủ quân thì ngoài đồn lớn, sẽ có các đồn nhỏ khác nhau vây quanh đồn
lớn, mỗi đồn chứa vài chục người thì may ra là hợp lý. 5 đồn lớn này chỉ mang
tính tương đối, điển hình; nhưng sẽ thiếu sót nếu ta bỏ qua các đồn nhỏ lẻ, các
nhà dân đôi khi cũng là nơi trú đóng của quân sĩ. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[16]
Về loại súng này thì sau khởi nghĩa Trần Văn Thành hơn 10 năm, Cao Thắng trong
cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896) đã tiến một bước mới trong việc chế tạo
mẫu súng trường kiểu 1874 của Pháp. Theo C. Gosselin thì “vì nòng súng không xẻ rãnh, cho nên đạn
không đi xa được”, góp phân duy trì khởi nghĩa Hương Khê khá lâu
(1885 – 1896).
[17] Lenin toàn tập, tập 4, NXB Sự thật, Hà
Nội, 1962, tr. 305
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét