Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc hơn 2 thập kỷ qua (1992 – 2014): thành tựu nổi bật và triển vọng

Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc hơn 2 thập kỷ qua (1992 – 2014): thành tựu nổi bật và triển vọng

Mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức bắt đầu vào ngày 22/12/1992, mối quan hệ này đã phát triển nhanh chóng và trở nên mật thiết. 22 năm (1992 – 2014) là một khoảng thời gian khá dài trong cuộc đời mỗi con người, nhưng lại quá ngắn trong lịch sử của cả dân tộc và cả thế giới. Nhìn lại hơn hai mươi năm sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với những biến động  sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực châu Á – Thái Bình Dương, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã có những bước phát triển đầy khích lệ. Trong lịch sử quan hệ quốc tế, rất hiếm có mối quan hệ nào lại không trải qua bước thăng trầm, luôn phát triển đi lên; dường như quan hệ Việt – Hàn là một ngoại lệ. Trong một khoảng thời gian ngắn, từ cái mốc ban đầu là thiết lập quan hệ từ năm 1992 thì quan hệ giữa hai nước đã phát triển nhanh, mạnh trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Có thể nhận xét rằng, mối quan hệ này chỉ có “thăng” chứ chưa có “trầm” và được dư luận hai nước đặc biệt hoan nghênh, xem đây là một sự “bùng nổ” mối quan hệ. Để hiểu rõ thêm quá trình thiết lập quan hệ chính thức và sự phát triển của quan hệ Việt - Hàn trong thời gian qua, bài tham luận này sẽ tìm hiểu những nhân tố dẫn tới việc hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao; phân tích và đánh giá những thành tựu đạt được và dự báo triển vọng hợp tác giữa hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa, ngoại giao.
Abstract:
Diplomatic relations between Vietnam and South Korea has officially started on 12/22/1992, this relationship has developed rapidly and become intimate. 22 years (1992-2014) is a fairly long period of time in every man 's life , but is too short in the history of the nation and the world. Looking back over twenty years after the Cold War ended, along with the profound changes of the international situation and the Asia - Pacific region, Vietnam relations - South Korea has taken steps to develop full encouraging. In the history of international relations, a very rare relationship did not go through ups and downs, always thriving; seems to Vietnam relations - Korea is an exception. In a short period of time, from the original mold is to establish relations since 1992, the relations between the two countries has grown strong in many areas of economics, politics, culture . It can be observed that this relationship can only "win" and not a "depression" and is widely welcomed two special countries, see this as an "explosive "relationship. To further understand the process of establishing formal relations and the development of Vietnam relations - Korea in recent years, this paper will explore the factors that led to the two countries established diplomatic relations; analyze and evaluate the achievements and forecasts the prospects of cooperation between the two countries, particularly in the fields of economics, politics, education, culture and diplomacy .
I. Những nhân tố dẫn tới thiết lập quan hệ Việt – Hàn
Thứ nhất, chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra những biến chuyển lớn trong đời sống chính trị thế giới nói chung và trong quan hệ quốc tế nói riêng. Bước vào những năm 90, do chiến tranh lạnh vừa kết thúc nên thế giới có những chuyển hóa cơ bản. Môi trường quốc tế trải rộng từ Bắc xuống Nam, Đông sang Tây trên mọi phương diện. Ý thức hệ lúc này không còn là trở ngại trong quan hệ quốc tế của các quốc gia mà nó hòa nhập và biến chuyển trong sự phát triển của thế giới. Phát triển kinh tế trở thành ưu tiên số một của nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà xu hướng phát triển kinh tế ngày càng tăng và phát triển đa dạng, phong phú, phù hợp với xu thế “toàn cầu hóa” – vốn đang xu thế thịnh hành trong thế giới hiện nay. Quan hệ quốc tế lúc này không còn tình trạng đối đầu giữa các nước như thời chiến tranh lạnh, mà đã chuyển sang tình trạng đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu tranh vì một thế giới hòa bình. Trước bối canh đó, các nước phải tiến hành đa phương hóa quan hệ, đa dạng hóa để có thế đứng trên trường quốc tế và vị thế thuận lợi để phát triển đất nước. Là hai nước có chế độ chính trị - kinh tế khác nhau, Việt Nam và Hàn Quốc cũng không nằm ngoài xu hướng đó – đó là điều kiện để hai nước này thiết lập quan hệ ngoại giao trên nhiều mặt.
Thứ hai, do biến chuyển của thế giới nên khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã chuyển hướng từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác vì hòa bình. Vào thập niên 80 – 90, khu vực này là nơi có kinh tế phát triển năng động nhất thế giới và trong đó, vai trò của các nước vừa và nhỏ là tăng lên rõ rệt, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ hòa bình thế giới. Trong quan hệ quốc tế, giữa các quốc gia thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã có hiện tượng “tiếp xúc chéo”; “công nhận chéo” và bình thường hóa quan hệ giữa các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Tình hình Triều Tiên được có sự tiến triển đáng kể. Suốt từ 1990 – 1994, hai miền Nam – Bắc Triều Tiên đã đàm phán cấp chính phủ (1990); ký thỏa thuận hòa giải – hợp tác và không xâm lược lẫn nhau, ký Tuyên bố phi hạt nhân hóa (1991); gặp gỡ cấp cao hai miền (1994)… Tình hình chính trị và kinh tế thuận lợi cho việc hai nước Việt – Hàn thiết lập quan hệ với nhau.
Thứ ba, với hai thập niên phát triển mạnh về kinh tế (1960 – 1980), đến thập niên 90 thì Hàn Quốc lớn mạnh lên; trở thành “con rồng kinh tế châu Á”. Hàn Quốc tận dụng những mặt tích cực của xu thế mới trên thế giới, cộng với quá trình “dân chủ hóa” trong chính quyền Hàn Quốc để vươn lên và vươn rất mạnh mẽ. Trong đối ngoại, Hàn Quốc có chính sách mềm dẻo để giải quyết nội tại đất nước và vươn tới việc thống nhất hai miền Triều Tiên. Năm 1988, chính phủ Hàn Quốc xúc tiến chính sách “ngoại giao phương Bắc” nhằm thiết lập quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN; kể cả bình thường hóa quan hệ với Bắc Triều Tiên. Nhờ chính sách này, Hàn Quốc thoát khỏi việc lệ thuộc kinh tế vào Mỹ, Nhật và tiến tới quan hệ đa phương với các nước có chế độ chính trị khác nhau. Điều đó tạo điều kiện cho Hàn Quốc gia nhập Liên Hiệp Quốc và sau đó là quan hệ với Việt Nam.
Về phía Việt Nam, sau Đổi mới 1986 thì Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, đất nước được ổn định và yên bình. Trong bối cảnh thế giới, Việt Nam điều chỉnh chính sách đối ngoại rộng mở với nhiệm vụ trọng tâm: tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định; thực hiện phương châm “thêm bạn bớt thù” nhằm mục đích “làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[1]. Để thực hiện mục đích đó, Việt Nam tiến hành chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với các nước để tạo môi trường hòa bình, hữu nghị và ổn định lâu dài trong khu vực; đồng thời xác lập được vị trí và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trên cơ sở tư duy đối ngoại và nhu cầu phát triển của quốc gia, Việt Nam thấy Hàn Quốc là đối tác quan trọng và nhiều tiềm năng, nên đã thiết lập quan hệ ngoại giao.
II.   Một số thành tựu nổi bật
a.      Chính trị
Gần hai thập niên kể từ sau khi Việt Nam thống nhất (1975), quan hệ Việt – Hàn vì nhiều lý do khác nhau nên đã ngưng trệ. Tuy nhiên, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc ít lâu thì xu thế trên thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hòa bình và hợp tác và điều đó tạo điều kiện cho quan hệ Việt – Hàn sau nhiều năm ngưng trệ, thậm chí là bị cắt đứt đã nối lại quan hệ với nhau, đáp ứng những lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế mới.
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, hai bên Việt – Hàn đã và đang tiến hành thường xuyên theo hai cơ chế song phương và đa phương. Về cơ chế song phương, hai bên đã tiến hành các cuộc tiếp xúc thường xuyên với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú, góp phần tăng cường tình hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Gần như mỗi năm đều có đoàn cấp cao của hai nước sang thăm lẫn nhau. Về phía Việt Nam, các đoàn đại biểu cấp cao của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Phan Văn Khải (2003), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (2009)… Đặc biệt, tháng 8/2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Hàn Quốc, đã cùng với lãnh đạo nước chủ nhà Hàn Quốc Kim Dae Young ký Tuyên bố chung thiết lập khuôn khổ “Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI”. Đến tháng 6/2009, trong chuyến thăm chính thức Hàn Quốc và đồng thời là tham dự Hội nghị cấp cao kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại Việt – Hàn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và người đồng cấp Hàn Quốc của mình ký Tuyên bố chung thiết lập khuôn khổ “Đối tác hợp tác chiến lược”. Về phía Hàn Quốc, lãnh đạo của nước này thực hiện các chuyến thăm cấp cao sang Việt Nam như: chuyến thăm của Thủ tướng Hàn Quốc Lee Young Duk (8/1994) Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam (11/1996), Thủ tướng Lee Han Dong (tháng 4/2002) Tổng thống Roh Mou Hyun (10-12/10/2004). Các chuyến thăm cấp cao trên có ý nghĩa quan trọng. Nó không chỉ giúp hai nước ngày càng gắn bó, thân thiết mà còn góp phần nâng cấp mối quan hệ: từ quan hệ đối tác thông thường nâng cấp thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược; điều đó đã thúc đẩy mối quan hệ đó ngày càng phát triển tốt đẹp và sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Cùng với các cuộc tiếp xúc giữa Chính phủ hai nước, các cuộc tiếp xúc liên nghị viện giữa quốc hội và các nghị sĩ của hai nước cũng được tiến hành. Các hoạt động chính trị đối ngoại này trở thành một phần quan trọng của quan hệ song phương, góp phần trao đổi kinh nghiệm lập pháp, kinh nghiệm thi hành pháp luật trong hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò của nhà nước pháp quyền trong đời sống xã hội ở mỗi nước. Đầu tiên là các chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Kim Soo Han (tháng 8/1996), Chủ tịch Quốc hội Park Hwang Ying (từ 30/9-04/10/2003), Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Won Ki (14-18/1/2006). Về phía Việt Nam thì có các chuyến thăm hữu nghị Hàn Quốc của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (tháng 3/1998), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (21-25/7/2004), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (3/2008). Trong Quốc hội hai nước, các nghị sĩ của Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban pháp luật, Ủy ban các vấn đề kinh tế - xã hội đã thường xuyên có những cuộc gặp, tiếp xúc cấp cao, cuộc gặp để tham khảo thường xuyên giữa hai bên. Đặc biệt, quan hệ giữa hai nước không chỉ diễn ra trong quan hệ nhà nước, chính phủ, Quốc hội mà còn lan sang cả quan hệ với các chính đảng. Tháng 11/1994, đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam sang Hàn Quốc theo lời mời của Đảng Tự do dân chủ Hàn Quốc nhằm chính thức thiết lập quan hệ giữa các Đảng cầm quyền với nhau. Đây là điểm khá mới và cũng khá đặc biệt trong quan hệ Việt – Hàn, khác hẳn với quan hệ Việt – Nhật (và một số quan hệ giữa Việt Nam với một số nước khác) vốn chú trọng quan hệ nhà nước, chính phủ, Quốc hội mà chưa có quan hệ giữa các chính đảng. Việc gác lại những khác biệt về tư tưởng để bắt tay hợp tác giữa các chính đảng cho thấy hai bên thật sự đã xóa nhòa dần sự khác biệt tư tưởng, nâng mối quan hệ của mình lên một tầm cao mới nhất có thể. Sau sự kiện tháng 11/1994, mối quan hệ giữa hai chính đảng được nâng lên một bước mới qua các chuyến viếng thăm Hàn Quốc của Tổng bí thư Đỗ Mười (4/1995) và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh (11/2007)… Các chuyến thăm của Tổng bí thư Việt Nam sang Hàn Quốc, không chỉ la thực hiện mục đích thắc chặt quan hệ giữa hai chính đảng của hai nước, mà đồng thời giúp hai nước học hỏi lẫn nhau kinh nghiệm quản lý tổ chức Đảng, quản lý cán bộ Đảng, điều lệ Đảng…
Trong quan hệ chính trị theo cơ chế song phương, hai bên bày tỏ sự gần gũi về lập trường, quan điểm trên một số vấn đề quan trọng như: xây dựng trật tự thế giới công bằng, bình đẳng; chống lại mọi hình thức áp bức hay can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền; nâng cao hiệu quả của Liên Hiệp Quốc trong việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu; vấn đề chống chủ nghĩa ly khai và an ninh châu Á – Thái Bình Dương… Việc nhất trí và thống nhất các vấn đề do hai bên đặt ra, thảo luận không chỉ giúp hai bên hiểu nhau hơn, mà còn củng cố thêm sự gần gũi, hợp tác lẫn nhau giữa hai nước, hai chính phủ. Đó là điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng cường quan hệ Việt - Hàn trong bối cảnh quốc tế mới.
Bên canh quan hệ song phương, hai nước đã tiến hành quan hệ lẫn nhau theo cơ chế đa phương trong các tổ chức quốc tế, các diễn đàn khu vực mà hai bên là thành viên. Trong quan hệ đa phương, Việt Nam và Hàn Quốc thường xuyên tham khảo ý kiến của nhau khi giải quyết các vấn đề của Liên Hiệp Quốc, ủng hộ lẫn nhau các ứng viên của nhau tham gia vào các Ủy ban trong tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này. Về phía Hàn Quốc, nước này tiến hành nhiều hoạt động ủng hộ Việt Nam tham gia vào Hội đồng Kinh tế - xã hội của Liên Hiệp Quốc trên cương vị Phó Chủ tịch và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; hoan nghênh Việt Nam phê chuẩn được Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân. Trong Liên Hiệp Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc chia sẻ cùng nhau một cách gần gũi và thân thiện những vấn đề quan trọng mà toàn cầu đang phải đối phó; đó là vấn đề cấm phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, tội phạm buôn người, vấn đề buôn lậu ma túy và chống khủng bố quốc tế. Đối với các tổ chức thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương như APEC, ARF, ASEM; hai bên Việt Nam và Hàn Quốc khẳng định đẩy mạnh quan hệ hợp tác lẫn nhau, củng cố sự đoàn kết trong nội bộ các tổ chức khu vực châu Á – Thái Bình Dương mà hai nước là thành viên, góp phần duy trì sự hòa bình và ổn định, phát triển ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Về phía mình, Việt Nam cam kết cùng làm việc và hợp tác với bạn (Hàn Quốc) ở việc thúc đẩy khả năng hợp tác nhiều bên trong khuôn khổ các tổ chức khu vực, tăng cường đối thoại lẫn nhau để qua đó, hai bên có thể nắm được định hướng chính sách có ý nghĩa chiến lược của nhau ở Đông Nam Á, Đông Á và khu vực châu Á – Thái Bình Dương để cuối cùng đạt được những kết quả bước đầu trong hoạt động quan hệ lẫn nhau, tăng cường quan hệ hợp tác, gần gũi nhau để giải quyết các vấn đề của khu vực (trong đó có vấn đề Biển Đông) cho phù hợp với định hướng phát triển của từng nước, phù hợp với lợi ích của quốc gia. Về phía Hàn Quốc, nước bạn đã có những hoạt động tích hợp để quan hệ, hợp tác với Việt Nam để cùng giải quyết các vấn đề trong khu vực. Tại Hội nghị cấp cao ở Chile năm 2004, Tổng thống Hàn Quốc Roh Mu Hyun có cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Việt Nam Trần Đức Lương để bàn về vấn đề tăng cường sự phối hợp vấn đề quốc tế và khu vực. Tiếp đó, trong cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Việt Nam Trần Đức Lương tại Hội nghị Thượng đỉnh diễn đàn APEC tại Busan (Hàn Quốc), Tổng thống Hàn Quốc Roh Mu Hyun đánh giá cao vai trò chủ tịch của Việt Nam tại Diễn đàn Hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có việc tổ chức thành công Hội nghị APEC – 14 tại Hà Nội mà chủ đề của APEC – 14 do phía Việt Nam đưa ra là phù hợp với các ưu tiên của Hàn Quốc. Quan hệ đối tác toàn diện Việt – Hàn tiếp tục được thúc đẩy trong khuôn khổ cơ chế hợp tác ASEAN mang lại lợi ích thiết thực cho cả đôi bên.
b.      Ngoại giao
Quan hệ ngoại giao giữa hai bên cũng đang được thúc đẩy và phát triển toàn diện, thể hiện ở việc thông giao, giao lưu lẫn nhau.
Trong quan hệ ngoại giao Việt – Hàn, vấn đề quan hệ theo kiểu “kết nghĩa” được coi trọng và đề cao. Ở hai nước đã diễn ra các cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhiều địa phương của hai nước để tìm hiểu cơ hội hợp tác, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ở địa phương có cơ hội tiếp xúc trực tiếp và làm ăn kinh doanh. Tính đến đầu 2014 đã có 16 tỉnh thành của Việt Nam và Hàn Quốc chính thức đặt quan hệ kết nghĩa với nhau. Về phía Hàn Quốc, có lẽ để bù đắp những lỗi lầm mà Hàn Quốc trước đây đã gây ra với Việt Nam trong thời chiến tranh Việt – Mỹ (1954 – 1975) mà Hàn Quốc là một bên tham chiến; hơn 30 hội cựu chiến binh Hàn Quốc có liên quan đến Việt Nam được thành lập. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam tiến hành Đổi mới thì nhiều tổ chức Hàn Quốc liên quan đến Việt Nam đã ra đời, như Liên hiệp công dân vì chính nghĩa (1989). Năm 1995, Ủy bản dự án Việt Nam của tổ chức này đã ra đời; triển khai các dự án ở Việt Nam như khai thác nông thôn, hỗ trợ dạy học – dạy nghề. Năm 1993, Hội hỗ trợ Dự án xây dựng trường dạy nghề Hàn – Việt được thành lập với mục đích dạy học cho trẻ em vùng khó khăn, dạy nghề nghiệp cho họ. Năm 1995, tổ chức KOVIET được thành lập để giúp đỡ trẻ em lai Hàn – Việt, về sau là trợ cấp học bổng cho học sinh – sinh nghèo, khám chữa bệnh miễn phí tại Việt Nam.
Về vấn đề giải quyết hậu quả chiến tranh ở Việt Nam, Hàn Quốc đã có những hành động tích cực và thực hiện rất hiệu quả. Tháng 1/2000, hơn 13 tổ chức Hàn Quốc hợp lại hình thành Ủy ban sự thật về chiến tranh Việt Nam để “xác minh sự thật về chiến tranh Việt Nam”; hiện nay đã có 3 tổ chức[2] của Hàn Quốc liên quan đến Việt Nam hoạt động rất hiệu quả; mạnh nhất là 2 tổ chức: Tôi và chúng ta, Hội y tế Hàn Quốc. Tổ chức Tôi và chúng ta (Nawauri, 1998) hoạt động khá hiệu quả. Hằng năm (từ 2000) tổ chúc này tổ chức cho người dân Hàn đến thăm những địa phương có người bị thảm sát, trợ giúp 20 USD hàng tháng cho người dân sống sót sau vụ thảm sát và giao lưu thanh niên hòa bình Hàn – Việt. Hội y tế Hàn Quốc cũng đã hoạt động rất hiệu quả trong việc tổ chức khám chữa bệnh miễn phí 5 đợt, với 300 bác sĩ tham gia cho hơn 10.000 bệnh nhân ở Quảng Ngãi, Bình Định. Ngoài ra, các tổ chức khác như Hội hữu nghị Hàn – Việt, Hội Giao lưu hữu nghị Hàn – Việt đã được thành lập nhằm mục đích triển khai các hoạt động xã hội, từ thiện và nhân đạo tại Việt Nam. Ngoài ra, giao lưu thanh niên Việt – Hàn đã được Bộ Văn hóa – du lịch hai bên ký kết thỏa thuận bao gồm các hoạt động: giao lưu hội trại, liên hoạn văn hóa – văn nghệ, trao đổi thông tin, nhiếp ảnh… Từ 1999 – 2003, hai bên cử đoàn gồm 20 người sang thăm lẫn nhau trong 10 ngày. Năm 2008, sau sự kiện Việt – Hàn ký thỏa thuận tăng cường mở rộng quan hệ sẵn có (2004), Việt Nam cử 30 đại biểu thanh niên tiêu biểu sang tham dự Chương trình giao lưu thanh niên Việt – Hàn; đồng thời vào tháng 9 cùng năm, nước ta đón 30 đoàn đại biểu thanh niên Hàn Quốc sang giao lưu với phương thức hoạt động tương tự.  
c.      Kinh tế
Cơ chế tiếp xúc đối thoại thường xuyên ở các cấp, đặc biệt là ở cấp cao đã tạo cơ sở cho quan hệ kinh tế ở hai nước Việt – Hàn. Hai bên đã ký được một số hiệp định cơ bản, tạo khung pháp lý cho cho quan hệ kinh tế giữa hai nước như Hiệp định hàng hải, Hiệp định hàng không, Hiệp định bảo hộ đầu tư, Hiệp định cho vay tín dụng ưu đãi… Trong hơn 20 năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước không ngừng tăng cao. Theo thống kê sơ bộ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước tăng từ 304,7 triệu USD (1992), lên vọt tới 12,85 tỷ USD (2010)[3] – tăng gần 20 lần so với năm 1992. Theo thống kê sơ bộ, năm 2010 thì xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 3,09 tỷ USD, tăng 49,8% và nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc là 9,76 tỷ USD, tăng 40,6%. Trong tháng 01/2011, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường này cũng đạt 1,45 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 451 triệu USD và nhập khẩu là hơn 1 tỷ USD. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 25 của Hàn Quốc với thị trường xuất khẩu lớn thứ 25 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 35. Còn Hàn Quốc đứng thứ 10 trong tổng số các thị trường xuất khẩu của Việt Nam và là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam (chỉ xếp sau Trung Quốc). Về mặt xuất khẩu, Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc nhiều loại mặt hàng như nông sản, khoán sản, hải sản, đồ thủ công mỹ nghệ, giày dép… nhưng các sản phẩm này thường có số lượng nhỏ, giá trị thấp. Trong khi đó nhập khẩu từ Hàn Quốc sắt thép, máy móc thiết bị phụ tùng, phân bón, xăng dầu, hóa chất, ô tô, dược phẩm và đây là những sản phẩm có giá trị cao, khối lượng lớn. Chính vì thế mà cho đến nay (tính tới 2010) thì Việt Nam luôn phải nhập siêu và nhập siêu mạnh đến mức chóng mặt (xem bảng 1)
Xem bảng 1, ta thấy việc nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam (2010 là tăng 11,5%), trong khi kim ngạch xuất khẩu chỉ chiếm 4,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Mặc dù Việt Nam nhập siêu từ Hàn Quốc là rất lớn, nhưng đôi khi lúc đối tác gặp khó khăn thì Việt Nam xuất siêu sang Hàn Quốc nhiều nhất (giai đoạn từ 1984 – 2008; khởi đầu là 20.624 triệu USD - 1984). Tuy nhiên, con số trên chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ thương mại Việt – Hàn. Nếu tính trung bình, hằng năm Việt Nam nhập siêu từ Hàn Quốc khoảng 12,6% tổng giá trị nhập khẩu, trong khi đó chỉ xuất siêu sang Hàn Quốc là 3,4%. Điều này thể hiện doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động, chưa tiếp cận được với thị trường tiêu thụ Hàn Quốc; trong khi đó các doanh nghiệp Hàn Quốc đã và đang phát triển ngày càng rộng thị trường của mình tại Việt Nam. Và chính vì nhập siêu mạnh nên cán cấn thương mại Việt – Hàn luôn trong tình trạng nhập siêu rất cao với Hàn Quốc trong các năm qua. Theo thống kê năm 2010, nhập siêu từ Hàn Quốc chỉ xếp sau Trung Quốc với mức thâm hụt là 6,67 tỷ USD, tăng 36,8% so với năm 2009 và gấp hơn hai lần xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Chỉ trong tháng 01/2011, mức thâm hụt thương mại với Hàn Quốc cũng đã lên tới 0,55 tỷ USD (xem biểu đồ 1)

Một lĩnh vực đáng chú ý nhất trong quá trình phát triển quan hệ kinh tế Việt – Hàn là vấn đề đầu tư. Trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao, số dự án đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam giai đoạn 1988 – 1991 khá khiêm tốn với 7 dự án, tổng vốn 41,3 triệu USD[4]. Tuy nhiên, từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước đến nay thì các doanh nghiệp Hàn Quốc ngày càng đầu tư mạnh vào Việt Nam. Tính đến tháng 7/2007, Hàn Quốc có gần 1.460 dự án đầu tư tại Việt Nam, với tổng vốn gần 9,36 tỷ USD, dẫn đầu trong số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam luôn có xu hướng tăng hàng năm và năm 1996 được xem là năm kỷ lục với tổng số vốn đầu tư lên tới 802,5 triệu USD. Mặc dù có trở ngại là cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 – 1998, nhưng việc đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam vẫn không ngừng phát triển. Với việc hai bên ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (2001), đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam rất mạnh. Từ năm 2002 – 2010, trong số các nước ASEAN thì Việt Nam là nước được Hàn Quốc đầu tư mạnh: 2002 đạt 3,29 tỷ USD với 332 dự án[5], 2003 đạt 4,1 tỷ USD với 642 dự án, 2004 đạt 4,37 tỷ USD với 729 dự án, 2007 đạt 11,5 tỷ USD với 1.655 dự án[6], 2009 đạt 16,2 tỷ USD với 2.150 dự án, 2011 đạt 22,3 tỷ USD với 2.739 dự án. Đến cuối tháng 4/2014, doanh nghiệp Hàn Quốc đã đầu tư vào Việt Nam là 3.376 dự án, với tổng vốn đầu tư là 30,77 tỷ USD[7]. Các tập đoàn công nghiệp lớn như Posco, Doosan, LG, Kumho…  cùng với một số doanh nghiệp hàng đầu về các ngành công nghiệp mũi nhọn (công nghệ thông tin, năng lượng, tài chính…) của Hàn Quốc đã được triển khai ở Việt Nam; tạo cơ hội việc làm cho hàng nghìn lao động trực tiếp và gián tiếp[8] tại Việt Nam. Các dự án đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam tập trung chủ yếu ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai. Phần lớn các dự án đầu tư của Hàn Quốc tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào công nghiệp (ô tô, thép, cơ khí, điện tử, dép, dệt may…) và xây dựng. Ở Việt Nam, Hàn Quốc đầu tư vào theo 3 hình thức: hợp đồng, liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Về quy mô, trung bình mỗi dự án có vốn đầu tư là 13,65 triệu USD. Số vốn đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam đều tập trung tại các tập đoàn lớn, với tổng vốn đầu tư lớn (trên 40 triệu USD), quy mô lớn và lực lượng lao động (trong đó chủ yếu là lao động có tay nghề) chiếm tỷ lệ khá cao như Nhà máy đóng tàu biển Huyndai-Vinashin, Xí nghiệp Samsung-Vina Synthetics, Công ty Daeha… Ngoài các dự án có tổng vốn trên 40 triệu USD, nhiều dự án lớn hơn có tổng đầu tư 2,5 tỷ USD cũng được xúc tiến mạnh mẽ. Các dự án lớn của các nhà đầu tư Hàn Quốc thực hiện tương đối nhanh. Nhiều dự án đã hoàn thành cơ bản và đi vào sản xuất kinh doanh.
Để thuận lợi cho việc đầu tư ở Việt Nam, Hàn Quốc tăng cường hoạt động tài trợ bằng hình thức viện trợ không hoàn lại và cấp tín dụng ưu đãi. Từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, các dự án ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam ngày càng tăng. Giai đoạn 1991 – 2003, thông qua Quỹ Hợp tác quốc tế (KOICA), Hàn Quốc viện trợ cho Việt Nam 41 triệu USD. Cụ thể là, Hàn Quốc đã cung cấp tài chính cho Việt Nam khoảng 25 dự án, bảo trợ 5 công trình nghiên cứu phát triển, mời 1.437 cán bộ Việt Nam đi đào tạo (tài liệu khác ghi là mời 1.624 người Việt đi đào tạo), cử 33 chuyên gia và khoảng 157 tình nguyện viên từ Hàn Quốc, cung cấp 42.000 USD cho quỹ cứu trợ khẩn cấp và 2 triệu USD cho dự án xây 40 trường phổ thông cơ sở… Viện trợ không hoàn lại này của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, đào tạo chuyên gia… Ngoài viện trợ cho Việt Nam bằng nguồn vốn ODA, Hàn Quốc còn xúc tiến cho Việt Nam vay vốn ưu đãi từ Quỹ viện trợ phát triển (EDCF)[9]. Năm 2006, Hàn Quốc cho Việt Nam vay vốn ưu đãi để xây dựng trường học, cơ sở hạ tầng, nhà máy… và số vốn vay này hằng năm luôn tăng[10].
d.      Văn hóa – giáo dục
Do nhận thức được Hàn Quốc – Việt Nam có khá nhiều điểm tương đồng về văn hóa (văn tự, văn chương và các ngày lễ tết) nên ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao được 2 năm (1992 – 1994), Việt Nam và Hàn Quốc ký kết Hiệp định Văn hóa (tháng 8/1994) có hiệu lực trong vòng 5 năm (hiệp định này có hiệu lực trong vòng 5 năm và tự động gia hạn 5 năm 1 lần) và nhiều thỏa thuận hợp tác giao lưu khác. Trong Hiệp định này, hai bên khẳng định Việt Nam và Hàn Quốc là 2 quốc gia Đông Á, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa. Do hậu quả của chiến tranh lạnh nên hai nước không có điều kiện tìm hiểu lẫn nhau. Nay tình hình đã ổn định, hai bên phải khai thác và phát huy tối đa sức mạnh văn hóa của mỗi nước, làm cơ sở tiến tới quan hệ hợp tác toàn diện về sau. Tiếp sau, để hợp thức hóa cho Hiệp định trên thì hai bên (Việt Nam và Hàn Quốc) thành lập những Hội để thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước. Về phía Việt Nam, vào tháng 9/1994 thì nước ta lần đầu tiên đã chính thức lập Hội Hữu nghị Việt – Hàn (sau là Hội nghị sĩ Việt – Hàn, 1995) nhằm mục đích trao đổi, giao lưu văn hóa giữa hai nước. Tương tự như Việt Nam, Hàn Quốc liên tiếp lập các Hội như Hội nghị sĩ Hàn – Việt (1993), Hội Giao lưu hữu nghị Hàn – Việt (2001) với mục đích tăng cường giao lưu giữa nghị sĩ hai nước.
Trên tinh thần đó, để thúc đẩy sâu hơn quan hệ văn hóa Việt – Hàn, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Việt Nam; Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc phối hợp cùng Bộ thương mại, Bộ Văn hóa du lịch cùng Ủy ban Thông tin quốc gia của Hàn Quốc tổ chức Tuần Văn hóa Việt Nam tại Seoul (tháng 11/2007). Tại Seoul, hai nước khuyến khích hợp tác giữa các hãng phim, các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức phát thanh – truyền hình. Tiếp đó, sau sự kiện chính phủ hai nước công nhận năm 2012 là “Năm hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc” thì một loạt các hoạt động có ý nghĩa đã diễn ra nhằm kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Việt – Hàn. Giao lưu văn hóa sôi động giữa hai nước mà hoạt động ẩm thực, văn hóa được coi là chiếc cầu nối để xích hai dân tộc Việt – Hàn lại với nhau; đồng thời giúp Việt Nam mở rộng trào lưu Hàn Quốc ra nước ngoài. Cũng trong năm này, một cuộc triển lãm nghệ thuật quy tụ các tác phẩm sơn mài, sơn dầu, tranh đồ họa của họa sĩ hai nước tham gia.
Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, Việt Nam và Hàn Quốc đạt được những thành tựu quan trọng. Sau sự kiện hai nước ký với nhau Hiệp định hợp tác giáo dục (3/2000) và Hiệp định hợp tác giáo dục và đào tạo (5/2005), hoạt động hợp tác giữa hai nước về giáo dục rất hiệu quả. Những năm qua, hợp tác giáo dục giữa hai nước thể hiện qua các nội dung như: trao đổi tư liệu thông tin; cử cán bộ và giáo sư Việt Nam sang Hàn Quốc giảng dạy và nghiên cứu; hỗ trợ dạy nghề và cấp học bổng. Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng KOICA để xây dựng 40 trường tiểu học ở 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa; Trung tâm Thư viện điện tử ở Học viện Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; nâng cấp Trường trung học công nghiệp Hà Nội, xây dựng trường kỹ thuật công nghiệp Việt – Hàn. Hàn Quốc cử 1.042 thực tập sinh, 28 chuyên gia, 2 giáo viên Taewondo sang Việt Nam; thường xuyên mời giảng viên Việt Nam sang giảng dạy ở 4 trường Đại học có khoa Việt Nam học[11]; và tiếp nhận 25.000 lượt sinh viên sang học tập ở Hàn Quốc. Trong khi đó ở Việt Nam, từ năm 1994 thì khoa Hàn Quốc học được xây dựng và phát triển. Hiện Việt Nam có tổng cộng 13 trường đại học và viện nghiên cứu, trong đó có 6 ở miền Bắc và 7 ở miền Nam. Bên cạnh đó có 4 trung tâm dạy tiếng Hàn và nghiên cứu[12]. Theo thống kê không đầy đủ, hiện nay số lượng sinh viên Việt Nam và học viên theo học tiếng Hàn khoảng 4.500 người; trong đó đông nhất là ở Đại học Hà Nội, Đại học KHXH-NV Tp. Hồ Chí Minh và Đại học Đà Lạt. Tổng số giảng viên dạy tiếng Hàn hiện có 123 người (11 tiến sỹ, 57 thạc sĩ và còn lại là cử nhân). Trong năm học 2011 – 2012, Hàn Quốc sẽ cử 34 giảng viên sang giúp đỡ dạy tiếng Hàn, trong đó 10 người là của KOICA.
e.      Khoa học – kỹ thuật
Hợp tác về khoa học – kỹ thuật giữa hai nước chủ yếu thông qua các dự án nghiên cứu chung, chuyển giao công nghệ từ Hàn Quốc vào Việt Nam. Sau các Hiệp định hợp tác kinh tế - kỹ thuật Việt – Hàn (1993), Hiệp định hợp tác về khoa học – công nghệ giữa hai nước (1995), hai nước có những hoạt động tích cực trong lĩnh vực này; đặc biệt là công nghệ và thông tin. Hai nước đã ký thỏa thuận mở Trung tâm Hợp tác khoa học – công nghệ (1997), trường kỹ thuật công nghiệp (1998) và trường kỹ thuật công nghiệp Việt – Hàn (1999) mở ở Nghệ An. Ngoài ra, hai nước hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sở hữu công nghệ, tiêu chuẩn đo lường… Đối với lĩnh vực điện hạt nhân, chính phủ hai bên ký Hiệp định hợp tác về sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình (1996). Hàn Quốc cử chuyên gia sang Việt Nam khảo sát một số địa điểm dự kiến xây nhà máy điện hạt nhân; nhận cán bộ Việt Nam sang Hàn Quốc nghiên cứu về hạt nhân. Từ năm 2004, Tổng công ty thủy điện và điện hạt nhân Hàn Quốc phối hợp với Bộ Công nghiệp và Viện Năng lượng Việt Nam triển khai chương trình nhận đào tạo cán bộ Việt Nam tại Hàn Quốc và mời giáo sư Hàn Quốc sang Việt Nam dạy học (2005 – 2009). Ở các lĩnh vực công nghệ thông tin và sở hữu công nghệ, hoạt động của hai bên cũng tương tự nhau. Cụ thể về lĩnh vực công nghệ thông tin, sau khi Trung tâm Hợp tác khoa học – Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc được thành lập thì nó đã hoạt động tích cực: hợp tác và chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực điện tử, quang điện tử, công nghệ thông tin, thẩm định công nghệ và sở hữu trí tuệ; quản lý bà kế hoạch hóa việc nghiên cứu thông qua đào tạo cán bộ, trao đổi kinh nghiệm, cử chuyên gia tư vấn và tiến hành các ứng dụng nghiên cứu chung. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, hai bên đang tiến hành hợp tác về các vấn đề trao đổi thông tin sở hữu công nghiệp, đào tạo chuyên gia sở hữu trí tuệ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Từ 1990 đến nay đã có khoảng 200 cán bộ Việt Nam sang Hàn Quốc dự các khóa đào tạo, hội thảo khoa học do KIPO và KOICA tổ chức.
III.            Triển vọng quan hệ Việt – Hàn
Trong 20 năm qua, mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đã phát triển hết sức nhanh chóng về mọi mặt. Tiếp nối nền tảng của sự phát triển này, việc hai nước chọn năm 2012 làm năm hữu nghị Việt Nam - Hàn Quốc có thể coi là một dấu mốc mới cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ lâu dài của hai nước, trước hết là cho 20 năm tiếp theo. Có thể khẳng định triển vọng của mối quan hệ này là hết sức tốt đẹp. Giai đoạn mới của quan hệ hai nước được đánh dấu bằng các chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam, Trương Tấn Sang, vào tháng 12/2011 và Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng, vào tháng 3/2012. Trong các chuyến thăm này hai bên đã ra các Tuyên bố chung thể hiện những nhận thức chung cũng như quyết tâm của lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược song phương lên tầm cao mới. Theo Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak, Hàn Quốc là “người bạn thân thiết và chân thành nhất,” là “đối tác tốt nhất và thực chất” của Việt Nam, sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, cả về kinh tế, thương mại, chính trị, quốc phòng, giao lưu nhân dân và hợp tác trên các diễn đàn quốc tế, khu vực.
Về kinh tế, hai bên đã nhất trí tiến hành khởi động đàm phán về một hiệp định tự do thương mại song phương (FTA). Điều này sẽ mở ra một triển vọng hết sức to lớn cho quan hệ thương mại giữa hai nước, tiến tới một sự hợp tác mậu dịch song phương cân bằng, cùng có lợi. Phía Hàn Quốc cũng đã nhất trí sẽ xem xét nghiêm túc những đề nghị của Việt Nam về việc tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc cũng như giúp Việt Nam trong việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ phù hợp với kế hoạch phát triển của Việt Nam. Hai bên thảo luận sâu về khả năng Hàn Quốc hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam cũng như đào tạo cho Việt Nam nguồn nhân lực trong việc sử dụng hạt nhân vào mục đích hòa bình. Hai bên còn mở rộng hợp tác thêm các vấn đề khác như: doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng, khai thác và chế biến sâu khoáng sản của Việt Nam; mở rộng hợp tác về tư pháp dân sự, ứng dụng công nghệ thông tin, chính phủ điện tử, chuyển giao công nghệ mũi nhọn, hợp tác trong kiểm dịch, bảo vệ môi trường, y tế, lao động, dạy nghề; hợp tác trong chống khủng bố, bảo vệ an ninh hàng hải trên các vùng biển của khu vực theo luật pháp quốc tế. Ngoài kinh tế, hai nước cũng tiến hành việc tăng cường hợp tác về kinh tế- thương mại, mở rộng hợp tác ngoại giao – an ninh với tư cách là đối tác hợp tác chiến lược cũng được coi là hết sức quan trọng trong quan hệ hai nước. Đặc biệt, trong chuyến thăm Hàn Quốc của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã ký kết nhiều văn bản hợp tác quan trọng giữa các bộ, ngành của hai nước[13]. Việc ký kết các văn bản hợp tác này có ý nghĩa tích cực đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của Việt Nam và Hàn Quốc.
Hai mươi năm qua, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc đã tiến những bước dài và là một trường hợp điển hình của những cặp quốc gia quyết tâm gạt quá khứ, hướng về tương lai và đạt được những thành tựu rực rỡ. Vậy 20 năm tới sẽ ra sao? Câu trả lời không khó vì từ xuất phát điểm ở những bậc thang rất thấp, quan hệ giữa hai nước đã tiến lên những nấc thang cao hơn với một tốc độ phát triển nhanh nhất thì nay từ nấc thang mới đó nhất định hai nước sẽ tiến lên tầm cao hơn nữa của quan hệ quốc tế. Theo nhận định của tờ báo Thế giới và Việt Nam, “Quan hệ Việt-Hàn (trong 20 năm tới) không phải là tiếp tục phát triển như 20 năm vừa qua, nó không phải là phép cộng của 20 năm tới mà nó là phép nhân, phát triển theo cấp số nhân. Không phải là 20+20 mà là 20x20 hoặc gần như thế. Hai mươi năm nữa nếu theo đà quan hệ này, theo ý chí của lãnh đạo và nguyện vọng của nhân dân hai nước như thế này, thì Việt Nam và Hàn Quốc nhất định sẽ trở thành đôi bạn, đôi anh em phồn vinh và hùng mạnh trên bờ Thái Bình Dương[14].
Theo đà phát triển mạnh mẽ của quan hệ hai nước trong 20 năm qua, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sâu sắc hơn nữa trong thời gian tới.

Tài liệu tham khảo:
1.      Nguyễn Hoàng Giáp (2009), Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2.      Hà Hồng Hải (2003), “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc: một thập niên phát triển đầy ý nghĩa, Nghiên cứu quốc tế, số 50
3.      Hoa Hữu Lân (2002), Câu chuyện kinh tế về một con rồng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4.      Nguyễn Thị Tâm (2013), “Quan hệ văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3.
5.      Nguyễn Cảnh Huệ, Nguyễn Trinh Nghiệu (2003), “Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam (1992 – 2002)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
6.      Ngô Minh Thanh (2004), “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc: điểm qua những con số và sự kiện quan trọng”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 6 (54), 12/2004.
7.      Phạm Minh Sơn (2003), “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc: thành tựu và thách thức”, Tạp chí Đông Nam Á, số 3/2003




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 103.
[2] Có 3 tổ chức là: Ủy ban xúc tiến xây dựng Bảo tàng Hòa Bình; Tôi và chúng ta và Hội y tế Hàn Quốc.
[3] Số liệu trên lấy từ bài của Tổng cục Hải quan, Hàn Quốc – đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam; xem: http://www.quangninhcustoms.gov.vn/Lists/HaiQuanQuocTe/ViewDetails.aspx?ID=25 . Năm 2012, kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước Việt Nam – Hàn Quốc đã vượt mốc 20 tỷ USD, tăng khá 18,6% so với mức 17,8 tỷ USD của năm 2011; truy cập trên: http://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=516&Category=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch%20chuy%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%81&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%ADch

[4] Hoa Hữu Lân (2002), Câu chuyện kinh tế về một con rồng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5] Trong bài viết có tựa đề “Quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc: thành tựu và thách thức” của Phạm Minh Sơn đăng trên Tạp chí Đông Nam Á, số 3/2003, tr. 34 có ghi số liệu khác như sau: năm 2002, Hàn Quốc là nước đứng thứ 5 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam với 462 dự án – tổng số vốn đăng ký là 3.485 triệu USD. Hiện chưa rõ vì sao có sự khác nhau này, xin ghi lại để tham khảo.
[6] Website của Ủy ban Hợp tác kinh tế quốc tế (2/12/2007), Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc, xem: https://www.nciec.gov.vn/
[7] Số liệu này trích lại trong Bộ Kế hoạch và đầu tư, Cục đầu tư nước ngoài, “Tình hình hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc”, xem: http://fia.mpi.gov.vn/News.aspx?ctl=newsdetail&p=&aID=1589 
[8] Theo thống kê sơ bộ năm 2002, đã có 67.748 lao động trực tiếp và hàng chục nghìn lao động gián tiếp Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp Hàn Quốc. Xem trong Phạm Minh Sơn, Tlđd, tr. 34.
[9] EDCF do chính phủ Hàn Quốc lập tháng 6/1987 nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển. Ngân hàng xuất khẩu Hàn Quốc chịu trách nhiệm thực hiện các dự án vay ưu đãi của EDCF do Bộ Tài chính và kinh tế quản lý. Đối với Việt Nam, hiện nay chính phủ Hàn Quốc áp dụng cho vay lãi suất là 2%, thời hạn cho vay là 30 năm. Xem trong (Hàn quốc voi khu vực dong á sau chien tarnh lạnh, tr. 154)
[10] Vào năm 2006, Hàn Quốc bắt đầu cho phép Việt Nam vay từ EDCF với 48,5 triệu USD (2006), 107 triệu USD (2007), 298,43 triệu USD (2008), 300 triệu USD (2010, tuyên bố của đại sứ Hàn Quốc Pak Su Han tại Hà Nội)…
[11] 4 trường Đại học có khoa Việt Nam học ở Hàn Quốc là Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, Đại học Ngoại ngữ Busan, Đại học Chungwoon va Đại học Youngsan. Xem Nguyễn Thị Tâm, Tlđd, tr. 25.
[12] Nguyễn Thị Tâm (2013), “Quan hệ văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3, tr. 25.
[13] Sáng 28/03/2012 dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak,  Bộ trưởng Tài chính Việt Nam Vương Đình Huệ và Bộ trưởng Tài chính và Chiến lược Hàn Quốc Bahk Jaewan đã ký Biên bản hợp tác trên lĩnh vực tài chính giai đoạn 2013-2015. Chiều ngày 29/03/2012, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Hàn Quốc Kim Hwang-sik, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ và Chủ tịch Ủy ban Dịch vụ Tài chính Hàn Quốc (FSC) Seok Dong Kim đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực bảo hiểm giữa Bộ Tài chính Việt Nam và Ủy ban Dịch vụ Tài chính Hàn Quốc. Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ và Chủ tịch Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (Korea Eximbank) Dongsoo Kim cũng đã  ký Hiệp định vay Dự án điện mặt trời tỉnh Quảng Bình và Dự án hệ thống xử lý nước thải và thoát nước thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang); Và nhiều hiệp định khác cũng đã được ký kết như: Thỏa thuận về việc tiếp tục tăng cường hợp tác phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, Biên bản ghi nhớ về hợp tác xây dựng Vườn ươm Công nghệ quốc gia... Xem trang: http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=235
[14] Như trên (xem chú thích 3)

Không có nhận xét nào: